Monday 6 July 2009

Vua Quang Trung với Hoàng Sa, Trường Sa

























































BinhII_2007's Blog Full Post View List View
Binh Architect book 2_2007
Tướng Giáp gửi thư nữa về bauxite

Tướng Giáp gửi thư nữa về bauxite

Đây là lá thư thứ ba tướng Giáp phản đối chuyện khai thác bauxite ở Tây Nguyên
Đại tướng Võ Nguyên Giáp lại mới gửi thêm một lá thư nữa cho Bộ Chính trị đảng Cộng sản Việt Nam, đề nghị dừng các dự án bauxite.
Lá thư được gửi đi ngày 20/05 vừa qua cảnh báo về nguy cơ 'quyết định sai lầm, gây nên tai họa lớn cho đất nước'.
Tướng Giáp, năm nay 98 tuổi, hoan nghênh Bộ Chính trị đã lắng nghe ý kiến các giới nhưng viết rằng "chủ trương khai thác chế biến bô xít ở Tây Nguyên là một vấn đề hết sức hệ trọng".
Theo ông, nó "sẽ có tác động lớn đến môi trường sinh thái, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng và đến phát triển ổn định, bền vững của đất nước."
Tổng hợp các ý kiến lắng nghe trong quá trình Việt Nam có tranh luận sôi nổi về vụ khai thác bauxite ở Tân Rai và Nhân Cơ với đối tác Trung Quốc đem công nhân của họ vào, ông Giáp cho rằng "nhiều vấn đề mà Bộ Chính trị nêu lên cho đến nay chưa được nghiên cứu, phân tích, đánh giá toàn diện đầy đủ".
Nhiều vấn đề mà Bộ Chính trị nêu lên cho đến nay chưa được nghiên cứu, phân tích, đánh giá toàn diện đầy đủ
Đại tướng Võ Nguyên Giáp
Đánh giá chung, ông Giáp nói thực ra Việt Nam "chưa có phương án giải quyết rõ ràng, còn nhiều vấn đề bất cập".
Bởi thế, ông đề nghị dừng các dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên, kể cả khai thác thí điểm.
Tướng Giáp cũng đánh thẳng vào quan điểm khai thác bằng mọi giá nhân danh "hiện đại hóa", vốn được một số nhà lãnh đạo nêu ra.
Ông viết:"Hiện nay chưa khai thác bô xít ở Tây Nguyên, dành tài nguyên đó cho thế hệ mai sau và không khai thác bô xít thì chúng ta vẫn tiến hành được công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước."
Đặc biệt, nhắc đến vai trò của Quốc hội hiện đang họp tại Hà Nội, ông mong rằng "Trung ương và Quốc hội phát huy dân chủ, bàn bạc kỹ lưỡng, có quyết định đúng đắn".
Ý kiến tướng lĩnh
Trong tháng 4 vừa qua, Tướng Giáp đã gửi lá thư thứ nhì đề nghị xem xét kỹ dự án bauxite.
Ông nói: "Tôi cho đây là một vấn đề cực kỳ hệ trọng. Vấn đề này trước đây tôi đã từng nghiên cứu, tôi đã có thư gửi đồng chí Thủ tướng nhưng chưa được trả lời."
"Tôi mong các nhà khoa học, các nhà quản lý, các nhà hoạt động xã hội hãy nêu cao trách nhiệm trước dân tộc, thảo luận một cách khoa học, nghiêm túc, thẳng thắn để kiến nghị với Đảng và Nhà nước một chủ trương đúng đắn về vấn đề bô-xít Tây Nguyên mà tôi cho là không nên khai thác."

Tướng Đồng Sĩ Nguyên mới đây cũng lên tiếng phản đối khai thác bauxite tại Tây Nguyên
Hồi đầu tháng 5 năm nay, trung tướng, nguyên Thứ trưởng Quốc phòng Đồng Sĩ Nguyên, trong bài viết đăng trên báo điện tử Vietnamnet, cũng nhấn mạnh vì Tây Nguyên là "yếu huyệt", cho nên ông không muốn thấy "bất kỳ nước nào vào Tây Nguyên."
Bài viết của cựu tư lệnh đường Hồ Chí Minh để kỷ niệm ngày 30/4 cho rằng: "Trong thời chiến và cả sau này cũng vậy, địa chiến lược, địa quân sự Tây Nguyên cũng luôn là yếu huyệt, vì thế làm gì ở Tây Nguyên cũng phải rất cẩn trọng,"
Ông Đồng Sĩ Nguyên nói "xây dựng Tây Nguyên phải do chính bàn tay người Việt làm."
Trước đó, đầu tháng 3, Thiếu tướng Lê Văn Cương, Viện khoa học Chiến lược Bộ Công an cũng công bố một tham luận nêu ra vấn đề khai thác bauxite ở Tây Nguyên có thể tác động đến vấn đề an ninh Việt Nam.
SOURCE
BBC Vietnamese

Wednesday May 27, 2009 - 11:20am (EDT) Permanent Link 0 Comments
Lê Chiêu Thống

Lê Chiêu ThốngBách khoa toàn thư mở WikipediaBước tới: menu, tìm kiếmLê Duy Khiêm Vua Việt Nam (chi tiết...) Tại vị 1786 - 1789 Tiền nhiệm Lê Hiển Tông Kế nhiệm Không có vương triều kết thúc Phối ngẫu Nguyễn Thị Kim Tên đầy đủ Lê Duy Khiêm Niên hiệu Chiêu Thống Thụy hiệu Mẫn hoàng đế Hoàng tộc Nhà Hậu Lê Thân phụ Lê Duy Vĩ Sinh 1765Mất 1793Yên Kinh, Trung Quốc An táng Tháng 11 năm 1804Lăng Bàn Thạch Lê Chiêu Thống (chữ Hán: 黎愍宗, 1765 - 1793), tên thật là Lê Duy Khiêm (黎維(礻兼)), khi lên ngôi lại đổi tên là Lê Duy Kỳ (黎維祁)[1], là vị vua cuối cùng của nhà Hậu Lê, thực ở ngôi từ cuối tháng 7 âm lịch[2] năm 1786 tới đầu tháng giêng năm 1789. Chiêu Thống đã sang cầu viện nhà Thanh đem quân sang đánh Quang Trung với hy vọng trở lại ngai vàng. Việc làm đó của ông bị các nhà sử học trong nước sau này chỉ trích dữ dội, coi đó là hành vi bán nước, "cõng rắn cắn gà nhà".
Mục lục [ẩn]1 Trước khi kế vị 1.1 Mắc nạn cùng cha 1.2 Được lập kế vị 2 Được Nguyễn Huệ đưa lên ngôi 3 Nỗ lực củng cố vương quyền 4 Nguyễn Hữu Chỉnh nắm quyền 5 Cầu viện Mãn Thanh 6 Chết trên xứ người 7 Phê phán 8 Ghi chú
Trước khi kế vị
Mắc nạn cùng chaBố của Duy Khiêm là hoàng thái tử Lê Duy Vĩ, con của vua Lê Hiển Tông (ở ngôi 1740 - 1786). Trước khi Trịnh Doanh chết, thế tử Trịnh Sâm có hiềm khích sâu nặng với Duy Vĩ. Sau khi lên nối ngôi chúa, tháng 12 năm Tân sửu (1771), Sâm bày mưu hãm hại và giết Duy Vĩ trong ngục. Lê Duy Khiêm cùng hai em là Lê Duy Trù và Lê Duy Chi đều bị bắt đem giam cấm ở ngục Đề Lãnh[3]. Năm đó, Duy Khiêm mới sáu tuổi. Chú của Duy Khiêm (em Duy Vĩ) là Duy Cận được lập làm thái tử do can thiệp của Trịnh thái phi (mẹ Trịnh Sâm).
Tháng 10 năm Nhâm Dần (1782), sau khi Trịnh Sâm mất, binh lính tam phủ làm loạn, truất thế tử Trịnh Cán, lập thế tử Trịnh Khải, tức là loạn kiêu binh. Quân lính cũng mở ngục rước ba con của Duy Vĩ về cung. Năm đó Duy Khiêm 17 tuổi, ở trong ngục tổng cộng 11 năm.
Được lập kế vịDuy Khiêm trở về cung, ngôi thái tử của Duy Cận bị đe doạ. Trịnh thái phi vốn ủng hộ Duy Cận sợ Duy Cận mất ngôi thái tử, bèn sai hoạn quan là Liêm Tăng (sót họ) đến bắt ép Duy Khiêm sang chầu, để toan bí mật giết đi. Duy Khiêm từ chối không được, khóc mà ra đi.
Khi đi đường, quân tuần sát ngăn lại. Vì thế các quân lính la hét ầm ĩ, yêu cầu tra cứu người lập mưu làm hại thái tôn. Quân lính lùng tìm Liêm Tăng không được, ngờ là Duy Cận chủ mưu. Lúc ấy, Duy Cận đang chầu Trịnh thái phi, nghi trượng để ngoài cửa phủ đường, quân sĩ đều đập phá tan nát. Duy Cận sợ, phải thay đổi quần áo đi lẻn về cung. Duy Khiêm thoát nạn.
Trịnh Khải biết việc này là do thái phi gây ra, bèn dụ quân sĩ thôi làm huyên náo, rồi hạ lệnh cho bầy tôi trong triều xin nhà vua Hiển Tông lập Duy Khiêm làm hoàng thái tôn, lại bắt Duy Cận làm tờ biểu nhường ngôi thái tử.
Tháng giêng năm 1783, Duy Khiêm với cương vị là cháu trưởng, được ông nội lập làm hoàng thái tôn, còn chú Duy Cận bị truất làm Sùng Nhượng Công. Lúc ấy Duy Khiêm 18 tuổi.
Được Nguyễn Huệ đưa lên ngôiTháng Bảy năm Bính Ngọ (1786), Nguyễn Huệ với chiêu bài phù Lê diệt Trịnh đã mang quân ra Bắc Hà đánh đổ Trịnh Khải. Quyền bính khi đó ở cả trong tay Nguyễn Huệ. Vua Hiển Tông phong cho Nguyễn Huệ là Nguyên soái phù chính dực vận Uy Quốc Công, sau đó gả con gái thứ 21 là công chúa Lê Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ. Khi đó Bắc Hà rối loạn, lòng người tản mát, vua Lê yếu hèn nhu nhược, chúa Trịnh thì đã bị đánh đổ, tạo ra khoảng trống quyền lực. Tuy nhiên, Nguyễn Huệ ra Bắc Hà lần này là lần đầu, giới sĩ phu Bắc Hà, do tư tưởng chính thống nên còn rất nghi kỵ và nhìn chung có thái độ chống đối với quân Tây Sơn. Phía nam quân Nguyễn Ánh vẫn còn quấy rối, không có Nguyễn Huệ thì không ai đảm đương được. Nguyễn Huệ thấy chưa thể củng cố được vững chắc quyền lực của mình ở Bắc Hà, nên đã quyết định không xưng đế mà để nhà Lê tiếp tục giữ ngôi vua. Quyền phế lập ở cả trong tay Nguyễn Huệ là điều cả ông lẫn nhà Lê đều ý thức được. Hiển Tông trước khi chết dặn lại Duy Khiêm:
"Ta chỉ sớm tối sẽ trút bỏ gánh nặng, bây giờ lo lắng việc nước là ở mình cháu, cháu phải nghĩ lấy. Binh lính xứ khác còn đóng ở đây, về việc truyền nối ngôi vua là việc trọng đại, cần phải thượng lượng bàn bạc với nguyên soái (tức Nguyễn Huệ), chớ nên làm tắt"[1]. Về việc chọn người nối ngôi, Nguyễn Huệ đầu tiên tham khảo ý kiến vợ là công chúa Ngọc Hân. Công chúa Lê Ngọc Hân khen Duy Cận là người hiền, nhưng sau đó do ý kiến từ các triều thần nhà Lê, Ngọc Hân xin lại với Nguyễn Huệ lập Duy Khiêm. Nguyễn Huệ đồng ý, đưa Duy Khiêm lên ngôi vua. Vua mới đổi tên là Duy Kỳ, đặt niên hiệu là Chiêu Thống. Năm đó, Chiêu Thống 21 tuổi.
Nỗ lực củng cố vương quyềnXem thêm: Trịnh BồngTháng Tám năm Bính Ngọ (1786), Nguyễn Nhạc ra Thăng Long rồi bất ngờ cùng Nguyễn Huệ bỏ vào nam mà không hề báo cho Chiêu Thống. Chiêu Thống không đủ uy tín và tài năng để khôi phục lại vương quyền, dẫn đến cảnh "hào mục các nơi chiếm giữ châu quận, chiêu tập binh mã, đều mượn danh nghĩa "bảo vệ"[1]. Những hạng vô lại đánh giết lẫn nhau, trong nước thành ra rối loạn". Thêm vào đó, dư đảng của họ Trịnh là Trịnh Bồng lại nổi lên, được vua triệu về triều, dần dần lấn át quyền hành của vua. Chiêu Thống cũng hiểu được đây là cơ hội khôi phục lại vương quyền chính thống của nhà Lê. Tháng Chín năm Bính Ngọ Chiêu Thống năm thứ nhất (1786), trước yêu cầu phong vương của Trịnh Bồng, vua cự tuyệt và nói:
“ Trước kia cơ nghiệp nhà ta giữa chừng đổ nát, chính quyền do trong tay họ Trịnh, việc tế tự thì về quả nhân. Đấy là một thời kỳ. Nhưng nay lòng trời oán ghét họa loạn, phó thác quyền bính cho một mình ta. Một nước hai vua, có lẽ nào cứ giữ làm thể lệ được?[1].”
Tuy nhiên, trước áp lực từ triều thần cùng lực lượng quân đội ủng hộ Trịnh Bồng do Đinh Tích Nhưỡng chỉ huy kéo từ Hải Dương về Thăng Long, Chiêu Thống buộc phải nhượng bộ và phong cho Bồng là Nguyên soái, Tổng quốc chính, Yến Đô Vương. Tuy nhiên, bản thân Trịnh Bồng cũng không nắm được thực quyền, việc quyết đoán nằm cả ở trong tay người thực sự nắm giữ quân đội là Đinh Tích Nhưỡng. Tích Nhưỡng vốn là tướng võ biền, dẫn đến việc cai trị càng rối loạn hơn: "Ngay giữa ban ngày, thủ hạ ra sức cướp bóc dân cư gần kinh thành, không có hiệu lệnh ngăn cấm. Mọi người đều cho là không còn hy vọng gì cả"[1]. Trong khi đó, Chiêu Thống một mặt tự đề phòng cho bản thân, một mặt bí mật xuống chiếu cần vương, cử người vào Nghệ An thăm dò ý định của trấn thủ Nghệ An là Nguyễn Hữu Chỉnh.
Tình trạng "bằng mặt mà không bằng lòng" giữa Chiêu Thống và Trịnh Bồng thể hiện qua sự kiện bổ nhiệm và đặt tên gọi quan lại sau đó. Chiêu Thống tìm cách nắm lấy binh quyền, nhưng Đinh Tích Nhưỡng, câu kết với Hoàng Phùng Cơ, mượn tiếng đem quân từ Sơn Tây về bảo vệ kinh thành, gây áp lực buộc nhà vua phải trở lại hệ thống cai trị cũ trước kia với quyền hành thực sự nằm cả trong tay chúa Trịnh.
Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục nhận xét:
“ "Từ đấy, chính quyền trong nước lại về tay họ Trịnh, nhà vua rất tức giận, mọi việc đều giằng co hạn chế, trong triều rối beng, không biết thế nào là chuẩn định"[1].”
Mâu thuẫn giữa cung vua và phủ chúa lên đến đỉnh điểm và bùng phát thành bạo lực vào tháng 11 năm Bính Ngọ (1786), sau sự kiện Dương Trọng Khiêm. Khiêm là một trong những người ủng hộ mạnh mẽ việc khôi phục quyền hành của chúa Trịnh và được Trịnh Bồng đền đáp bằng chức coi giữ bộ Hộ, trông coi về tài chính, thuế khóa. Tuy nhiên, do lo sợ nhà vua khôi phục lại quyền lực, Khiêm xui Trịnh Bồng làm việc phế lập. Bồng nghe theo, sai Nguyễn Mậu Nễ và Bùi Nhuận đang đêm đem quân vào cung khuyết. Hoàng Phùng Cơ nghe tin, sợ bị mang tiếng xấu cùng phe với quân tạo phản, đem quân chặn Mậu Nễ. Mậu Nễ không dám đánh, buộc phải lui quân.
Sau sự kiện đó, Chiêu Thống chính thức có chiếu thư cho Nguyễn Hữu Chỉnh kêu gọi đem quân cần vương. Chỉnh vốn là tay gian hùng, bỏ nhà Lê theo Tây Sơn, rồi lại dẫn Tây Sơn ra Bắc Hà, nhưng cũng không được Tây Sơn tin tưởng. Khi Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ rời Thăng Long vào nam đã không cho Chỉnh biết. Chỉnh phải chạy theo về, rồi được bổ làm trấn thủ Nghệ An, cũng là việc bất đắc dĩ. Đến đây, Chỉnh tiếp được mật chỉ, thấy là cơ hội không thể bỏ qua, lập tức truyền đi các nơi, lấy danh nghĩa nhà Lê mộ quân, trong "khoảng mười ngày, mộ hơn được một vạn lính"[1]. Chỉnh đem quân tiến ra Bắc, nhanh chóng đập tan mọi kháng cự của Trịnh Bồng và Đinh Tích Nhưỡng, được Chiêu Thống đích thân ra khỏi thành đón tiếp.
Nguyễn Hữu Chỉnh nắm quyềnXem thêm: Nguyễn Hữu Chỉnh và Vũ Văn Nhậm
Tháng 12 năm Bính Ngọ, Chiêu Thống thứ nhất (1786), sau khi Nguyễn Hữu Chỉnh đánh tan quân họ Trịnh, vào Thăng Long, Chiêu Thống bèn bổ dụng Chỉnh là Đại tư đồ, phong tước Bằng trung công. Chiêu Thống từ đấy dựa cả vào Hữu Chỉnh. Chỉnh nắm binh quyền, dần dần ép Chiêu Thống cả trong việc bổ nhiệm quan chức, sắp đặt chính sự. Cương mục chép:
“ "Từ đây, uy quyền quá lừng lẫy, Chỉnh kéo bà con bè đảng, cắt đặt chia giữ các chức ở trong kinh đô và ngoài các trấn, việc gì cũng tự Chỉnh chuyên quyền quyết định cả. Chỉnh lại mở phủ cho co là Hữu Du ở tại phía đông dinh mình, bắt chước như lối chúa Trịnh xưa cho thế tử ra ở phủ riêng. Chỉnh kiêu ngạo lấn lướt, làm cho nhà vua dần dần phát chán"[1].”
Chiêu Thống lại tìm cách giết Chỉnh, nhưng Vũ Trinh can ngăn, mới thôi. Chỉnh phong thanh biết chuyện, từ đó bỏ luôn cả lễ triều yết. Tuy nhiên, Chỉnh vẫn giữ danh nghĩa tôn phù vua Lê. Sau đó, cùng bộ hạ là Hoàng Viết Tuyển, Chỉnh lần lượt diệt các thế lực chống đối nhà Lê ở Bắc Hà: Dương Trọng Khiêm, Hoàng Phùng Cơ, Trịnh Bồng và Đinh Tích Nhưỡng.
Tháng 11 năm Đinh Mùi, Chiêu Thống thứ nhất (1787). Quân Tây Sơn do Vũ Văn Nhậm chỉ huy tấn công Bắc Hà. Chiêu Thống sai Nguyễn Hữu Chỉnh đem quân chống cự, nhưng trong trận đánh lớn trên sông Thanh Quyết, bị Văn Nhậm đánh tan. Hữu Chỉnh và em là Hữu Du chỉ kịp đem vài trăm quân chạy về Thăng Long.
Tháng 12 năm đó, Văn Nhậm kéo quân tới Thăng Long, Chiêu Thống nghe lời Hữu Chỉnh, bỏ Thăng Long chạy đi Kinh Bắc. Lúc đi, thị vệ và các bầy tôi tản mát bỏ trốn hết. Vua lại phải cho người sang nhờ Hữu Chỉnh đi hộ giá. Khi vua đến Kinh Bắc, trấn thủ là Nguyễn Cảnh Thước, vốn đã bí mật đầu hàng Tây Sơn, đóng cửa thành cáo bệnh không đón. Vua cùng Hữu Chỉnh qua đò sông Nguyệt Đức, đi theo chỉ còn sáu, bảy người, lại bị bọn vô lại cướp mất áo bào. Tình cảnh hết sức thê thảm. Khi Chiêu Thống tới huyện Yên Dũng mới được tri huyện huyện ấy giúp đỡ, xin hộ giá, rồi dần dần khôi phục lại được lực lượng ở mạn Cao Bằng, Thái Nguyên.
Sau đó, Nguyễn Văn Hòa, bộ tướng của Văn Nhậm, đuổi kịp quân nhà Lê. Chiêu Thống thân chinh cầm quân ngự chiến, nhưng thua trận, Nguyễn Hữu Du chết tại trận, Nguyễn Hữu Chỉnh bị bắt giải về kinh, rồi bị Văn Nhậm xử tử, quân nhà vua tan vỡ, Dương Đình Tuấn hộ vệ vua chạy sang trại Sơn Lộc. Các bầy tôi khác đều tan tác hết.
Cầu viện Mãn ThanhSau đó, Chiêu Thống lẩn quất chạy trốn quân Vũ Văn Nhậm ở mạn bắc sông Nguyệt Đức, khi thì ở huyện Gia Định, lúc lại đi Chí Linh, Thủy Đường, Vị Hoàng. Tháng tư năm Mậu Thân (1788), Nguyễn Huệ lại ra bắc, vào thành Thăng Long, bắt giết Vũ Văn Nhậm, cho Ngô Văn Sở cai quản binh quyền, đặt Lê Duy Cận làm giám quốc coi việc thờ cúng tôn miếu nhà Lê. Chiêu Thống chạy ra Kinh Bắc lần thứ hai.
Trước kia, khi thái hậu là mẹ vua đến Cao Bằng, bị các thế lực cát cứ địa phương uy hiếp, bầy tôi nhà Lê là Đốc đồng Nguyễn Huy Túc, phiên thần Địch quận công Hoàng Ích Hiểu, tụng thần Lê Quýnh và Nguyễn Quốc Đống bảo vệ thái hậu và con trai Chiêu Thống qua cửa ải Thủy Khẩu chạy sang Long Châu nhà Thanh, gặp Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị và Tuần phủ Quảng Tây Tôn Vĩnh Thanh cầu xin cứu viện.
Nhà Thanh bèn nhân dịp đấy định thôn tính luôn An Nam. Cương mục viết:
“ "Thái hậu đưa nguyên tử (con trai Chiêu Thống) đến yết kiến ở trong sân, gào khóc xin cứu viện. Bọn Sĩ Nghị tâu với vua Thanh rằng tự hoàng nhà Lê đương phải bôn ba, đối với đại nghĩa, ta nên cứu viện. Vả lại, An Nam là đất cũ của Trung Quốc, sau khi khôi phục nhà Lê, ta nhân đó, đặt lính thú để đóng giữ. Thế là vừa làm cho nhà Lê được tồn tại, vừa chiếm lấy được An Nam: thật là làm một chuyến mà được hai lợi."[4].”
Vua Thanh thuận cho, Sĩ Nghị bèn điều động quân bốn tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam và Quý Châu kéo sang Đại Việt, sai Lê Quýnh, Nguyễn Quốc Đống về tâu lại với Chiêu Thống. Vua bấy giờ mới biết, bèn sai Tham tri chính sự Lê Duy Đản và Hàn lâm hiệu thảo Trần Danh Án đi đường tắt lên đón quân nhà Thanh
Quân Thanh sang, quân Tây Sơn không đón đánh mà bỏ Thăng Long lui về giữ Tam Điệp. Tháng 10 năm Mậu Thân (1788), quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị chỉ huy đưa Chiêu Thống về Thăng Long. Nhà Thanh phong cho Chiêu Thống làm An Nam quốc vương. Kể từ đây, Chiêu Thống tin tưởng hoàn toàn vào nhà Thanh. Dù trở lại ngôi vua, Chiêu Thống thực sự chỉ là bù nhìn của quân Thanh. Việc chủ yếu của vua lúc đó là luận công những người hộ giá và trị tội những người theo Tây Sơn. Ngoài ra, việc trong ngoài đều trong tay Sĩ Nghị.
Cương mục nhận xét:
“ "Bấy giờ hào kiệt bốn phương đua nhau trổ sức để làm việc, nhưng nhà vua chủ yếu chỉ dựa vào người Thanh. Khi chia ban quan chức, nhà vua chỉ trao cho các bầy tôi đi theo hộ giá và theo hầu ở hành tại, còn cựu thần và hào kiệt đều không được bổ dùng. Các bầy tôi cũng không ai nói đến việc ra quân để phục thù. Trong kinh và ngoài các trấn thảy đều chán nản và rời rạc. Cái cơ thành hay bại chỉ một mục tùy theo người Thanh mà thôi. Thế là việc nước không thể xoay sở được nữa"[4].”
Chết trên xứ ngườiTháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789), Quang Trung (Nguyễn Huệ khi đó đã xưng hoàng đế) kéo quân ra Bắc Hà, chỉ một trận quét sạch 29 vạn quân Thanh, vua lại phải theo bại quân nhà Thanh chạy sang Trung Quốc. Chiêu Thống lại tiếp tục xin nhà Thanh cho quân cứu viện. Nhà Thanh, phần sợ Quang Trung, phần đã ngán ngẩm việc chinh chiến, chỉ hứa hão với Chiêu Thống mà không cho quân. Thân vương nhà Thanh là Phúc Khang An hứa giúp quân cho Chiêu Thống, nhưng lại tâu với vua Thanh Càn Long rằng Chiêu Thống không còn muốn trở về. Tháng tư năm đó, theo lời tâu của Hòa Thân và Phúc Khang An, Càn Long phong Nguyễn Huệ là An Nam quốc vương và nhận tiếp sứ của nhà Tây Sơn.
Thế nhưng, Chiêu Thống vẫn chưa thôi mộng phục quốc. Cương mục chép:
“ "Nhà vua căm giận vì bị người Thanh lừa gạt, bèn cùng các bầy tôi là bọn Phạm Như Tùng, Hoàng Ích Hiểu, Lê Hân, Nguyễn Quốc Đống, Nguyễn Viết Triệu, Lê Quý Thích, Nguyễn Đình Miên, Lê Văn Trương, Lê Tùng và Lê Thức mười người uống máu ăn thề, làm bài biểu định đưa lên vua Thanh để xin quân cứu viện, nếu không được thì xin được đất hai châu Tuyên Quang và Thái Nguyên để quay về giữ việc thờ cúng tổ tiên hay là cùng nhau lén về Gia Định, nương nhờ triều ta (triều Nguyễn) để dần dà toan tính việc khôi phục, chứ quyết không chịu sống thừa ở đất Bắc."[4].”
Tháng 5 năm Nhâm Tý, tức năm Càn Long thứ 57 (1793), con trai chết, Chiêu Thống thất vọng và chán nản, lâm bệnh rồi qua đời ngày 16 tháng 10 (âm lịch) tại Yên Kinh. Nhà Thanh chôn ông theo nghi thức tước công.
Năm 1802, sau khi Nguyễn Ánh lên ngôi Hoàng đế, mở đầu thời kỳ nhà Nguyễn, đã cho sứ giả sang thông hiếu và quy phục nhà Thanh. Nhân đó các bầy tôi nhà Hậu Lê dâng biểu xin trở về nước nhà. Năm 1804, vua Gia Khánh nhà Thanh cho phép đưa linh cữu vua Lê, thái hậu và con trai Chiên Thống về nước. Tháng 11 cùng năm táng nhà vua ở lăng Bàn Thạch.
Phê phánLê Chiêu Thống bị giới làm sử đời sau phê phán gay gắt. Tuy nhiên, nhà Nguyễn do Nguyễn Ánh thành lập ra sau đó, vì lý do Chiêu Thống chống đối Tây Sơn, lại nhìn nhận khá rộng lượng với Chiêu Thống.
Hoàng đế Tự Đức có lời phê về Chiêu Thống, đại ý nói:
“ "Nhà vua bị người ta lừa gạt, bị giám buộc ở quê người đất khách, đến nỗi lo buồn phẫn uất, ôm hận mà chết, thân dẫu chết, nhưng tâm không chết, kể cũng đáng thương! Vậy nên truy đặt tên thụy là Mẫn Đế"[4].”
Các tác giả Ngô gia văn phái trong Hoàng Lê nhất thống chí viết:
“ "Tuy vua Lê đã được phong Vương, nhưng giấy tờ đưa đi các nơi, đều dùng niên hiệu Càn Long. Vì có Nghị ở đấy nên không dám dùng niên hiệu Chiêu Thống. Ngày ngày sau buổi chầu, vua lại tới chờ ở doanh của Nghị để nghe truyền việc quân, việc nước. Vua cưỡi ngựa đi trước, Lê Quýnh cưỡi ngựa đi sau, quân lính hộ vệ chỉ vài chục người. Người trong kinh có kẻ không biết là vua. Hoặc có người biết, thì họ nói riêng với nhau rằng:
"Nước Nam ta từ khi có đế, có vương tới nay, chưa thấy bao giờ có ông vua luồn cúi đê hèn như thế. Tiếng là làm vua, nhưng niên hiệu thì viết là Càn Long, việc gì cũng do viên tổng đốc, có khác gì phụ thuộc vào Trung Quốc?""[5].”
Ghi chú^ a b c d e f g h Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, Chính biên quyển thứ 46 ^ Vua Lê Hiển Tông mất ngày 17 tháng 7 âm lịch ^ Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, Chính biên quyển thứ 43 ^ a b c d Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, Chính biên quyển thứ 47 ^ Hoàng Lê nhất thống chí, Hồi thứ 13 [hiện] Lê Chiêu Thống Trước:Lê Hiển Tông Vua nhà Hậu Lê1786-1789 Sau:Không có [hiện]x • t • sVua nhà Hậu Lê Lê Sơ Thái Tổ · Thái Tông · Nhân Tông · Lệ Đức hầu · Thánh Tông · Hiến Tông · Túc Tông · Uy Mục Đế · Tương Dực Đế · Chiêu Tông · Cung Hoàng Đế Lê Trung Hưng Trang Tông · Trung Tông · Anh Tông · Thế Tông · Kính Tông · Thần Tông · Chân Tông · Huyền Tông · Gia Tông · Hy Tông · Dụ Tông · Hôn Đức Công · Thuần Tông · Ý Tông · Hiển Tông · Mẫn Đế
--------------------------------------------------------------------------------Vua Việt Nam · Hùng Vương · An Dương Vương · Trưng Vương · Bắc thuộc · Nhà Tiền Lý · Tự chủ · Nhà Ngô · Nhà Đinh · Nhà Tiền Lê · Nhà Lý · Nhà Trần · Nhà Hồ · Nhà Hậu Lê · Nhà Mạc · Chúa Trịnh · Chúa Nguyễn · Nhà Tây Sơn · Nhà Nguyễn
Lấy từ “http://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%AA_Chi%C3%AAu_Th%E1%BB%91ng”Thể loại: Vua nhà Hậu Lê Sinh 1765 Mất 1793SOURCE
http://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%AA_Chi%C3%AAu_Th%E1%BB%91ng

Thursday May 14, 2009 - 10:36pm (EDT) Permanent Link 0 Comments
TÓM LƯỢC TIỂU SỬ TẢ QUÂN LÊ VĂN DUYỆT

TÓM LƯỢC TIỂU SỬ TẢ QUÂN LÊ VĂN DUYỆT Tả Quân Lê Văn Duyệt sinh năm 1764 tại làng Hòa Khánh tỉnh Định Tường (Mỹ Tho). Năm 1780 Ngài theo Nguyễn Ánh làm Thái Giám Nội Đình. Ngài bắt đầu binh nghiệp từ 1788. Từ đó đến năm 1802, Ngài lập được nhiều chiến công oanh liệt trên khắp các chiến trường Nam, Trung, Bắc, giúp Nguyễn Ánh thu phục giang san, thống nhất đất nước. Sau ngày thống nhất đất nước Ngài đã giúp vua tiễu trừ các cuộc phiến loạn ở nhiều nơi, đem lại an ninh thịnh vượng cho dân chúng. Ngài được vua Gia Long phong “Khâm Sai Chưởng Tả Dinh Bình Tây Tướng Quân”, tước Quận Công. Ngài được cử làm làm TỔNG TRẤN GIA ĐỊNH THÀNH hai lần. Gia Định thành bao gồm tất cả vùng đất Đồng Nai Cửu Long, từ Bính Thuận đến Cà Mau, tức vùng Nam Kỳ Lục Tỉnh sau này. Lần thứ nhất từ 1812 đến 1815 dưới triều vua Gia Long. Lần thứ nhì từ 1820 đền 1832 dưới triều vua Minh Mạng. Dưới sự lãnh đạo và cai trị sáng suốt của Ngài, người dân Đồng Nai Cửu Long được hưởng một nền an ninh và phồn thịnh nhất nước chưa từng có từ trước đến giờ. Người dân Đồng Nai Cửu Long luôn nhớ công ơn Ngài là vậy. Ngài mất ngày 30 tháng 7 năm Mậu Thìn (15 tháng 8, 1832) tại Gia Định. Ngài rất mực thanh liêm, rất thương dân, rất sáng suốt trong việc cai trị, có công rất lớn trong việc bảo vệ an ninh và phát triển vùng Đồng Nai Cửu Long. Đối với người dân Gia Định Ngài rất hiển linh, Ngài là một phúc thần bảo vệ, giúp đỡ người dân vùng Đồng Nai Cửu Long. Lăng Ông là nơi chôn cất và cũng là nơi thờ phượng Ngài. Hằng năm có không biết bao nhiêu người đến đây xin xâm, cầu nguyện, cúng bái. Lăng Ông ở bên chợ Bà Chiểu thuộc tỉnh Gia Định, gần bên Sài Gòn. Lăng Ông là biểu tượng của các đền thờ thần và đình làng ở Miền Nam Việt Nam. Lăng ông cũng là biểu tượng của văn hóa Miền Đồng Nai Cửu Long.
KHÂM SAI GIA ĐỊNH THÀNH TỔNG TRẤNCHƯỞNG TẢ QUÂN QUẬN CÔNG LÊ VĂN DUYỆT(1764 – 1832) Nguyễn Thanh Liêm
[Dưới thời Gia Long- Minh Mệnh, Gia Định bao gồm tất cả các tĩnh Miền Nam từ Phan Thiết đến Cà Mau, tức là là cả vùng Dồng Nai Cửu Long ngày nay. Làm Tổng Trấn Gia Định thời đó cũng chẳng khác nào làm Thống Đốc Nam Kỳ thời Pháp thuộc hay Thủ Hiến Nam Việt thời Quốc Trưởng Bảo Đại. Năm 1832 sau khi Đức Tả Quân Lê Văn Duyệt từ trần, chế độ Tổng Trấn Gia Định mới bị bãi bỏ. Minh Mạng chia trấn Gia Định thành sáu tỉnh. Chữ Nam Kỳ Lục Tỉnh có từ lúc đó.] Khâm sai Chưởng Tả Quân Lê Văn Duyệt sinh năm Giáp Thân (1764) tại Cù Lao Hổ, cạnh Vàm Trà Lọt nay thuộc làng Hòa Khánh, tĩnh Định Tường. Nội tổ là Lê Văn Hiếu từ Quảng Nghĩa thiên cư vào Nam. Thân phụ là Lê Văn Toại và thân mẫu là Phúc Thị Hào, sau này rời Vàm Trà Lọt đến cư trú bên Rạch Ông Hổ (vùng Rạch Gầm) nay thuộc làng Long Hưng Tây tỉnh Định Tường.Ngài sinh ra đã mang tật kín (ái nam) nên tính khí cũng khác người thường. Thuở nhỏ thường không chịu đi học mà chỉ thích làm bẩy, làm giỏ, bắt chim, đánh cá, nhất là đá gà và tụ tập các trẻ trong làng, chia phe tập trận đánh giặc. Rất khỏe mạnh, rất thông minh, giỏi võ thuật, tuy không có đi học nhiều, nhưng biết rất nhiều về truyện Tàu cùng các anh hùng hảo hán cũng như tư cách, tài năng và cách xử sự của họ ở trong đời. Ngài có chí lớn, mới 15 tuổi đã có câu nói “sinh ở đời loạn, không hay dựng cờ trống đại tướng, chép công danh vào sử sách không phải là trượng phu.”Năm 17 tuổi Ngài đã có dịp cứu Chúa Nguyễn Ánh cùng vài người tùy tùng khỏi tử thần. Đêm hôm đó Nguyễn Ánh bị quân Nguyễn Lữ đuổi gấp. Nhờ mưa to gió lớn thuyền của quân Nguyễn Lữ không đuổi theo được thuyền Nguyễn Aùnh. Nhưng khi đến Vàm Trà Lọt thì thuyền chở Nguyễn Ánh và đoàn tùy tùng bị sóng lớn làm cho suýt bị chìm. Ngài xuất hiện kịp lúc, đỡ thuyền Nguyễn Ánh đưa vào bờ, giúp Nguyễn Ánh thoát nạn. Biết Nguyễn Ánh là dòng dõi chúa Nguyễn, cụ Lê Văn Toại hết sức cung kính, lo lắng cho Nguyễn Ánh và đoàn tùy tùng cho họ tạm trú ở đây mấy hôm. Sau đó Nguyễn Ánh lại phải tiếp tục tìm đường lẩn trốn đoàn quân Nguyễn Lữ đang lục soát các nơi lùng bắt. Lúc chia tay Nguyễn Ánh cám ơn ông bà Lê Văn Toại với lời hứa là sau này sẽ trở lại đem Lê Văn Duyệt theo. Giữ đúng lời hứa, năm 1786 sau khi lên ngôi Chúa ở Gia Định, Nguyễn Ánh trở lại Vàm Trà Lọt cám ơn vợ chồng ông Lê Văn Toại đã giúp ông trong cơn hoạn nạn, và tuyển dụng Lê Văn Duyệt làm thái giám. Từ đó Ngài xả thân phò Chúa Nguyễn Ánh, cùng với Nguyễn Văn Thành đánh Nam dẹp Bắc, lập nhiều công trận lớn lao, được phong đến tước Quận Công. Khi vua Gia Long thống nhất giang san, lên ngôi Hoàng Đế, Đức Tả Quân Lê Văn Duyệt được liệt vào hàng Đệ Nhất Khai Quốc Công Thần, với đặc ân được vào chầu vua không phải lạy và được đặc quyền “tiền trảm hậu tấu” nơi biên thùy. Gia Long thăng hà, Ngài tiếp tục phò vua Minh Mạng cho đến hết cuộc đời mặc dù Ngài không kính phục thương mến ông vua này chút nào cả. Minh Mạng cũng không ưa gì Ngài nhưng phải dùng đến Ngài cho đến hết cuộc đời. Tuy vậy năm 1823 Ngài cũng được Minh Mạng ân thưởng ngọc đái với lời dụ: “Từ xưa hoàng tữ, chư công chưa ai được ân tứ ngọc đái nay khanh đã nhiều vãng tích, lại kiến tân lao nên đặc biệt ân tứ vậy.”Năm 1831 người bạn thân nhất của Ngài là Lê Chất, Tổng Trấn Bắc thành lìa đời khiến Ngài vô cùng thương xót. Sau cái chết của Lê Chất, Minh Mạng bãi bỏ chế độ tổng trấn ở Bắc Việt, đổi làm tỉnh, cử những chức vụ mới như Tổng Đốc, Tuần Phủ,.. Năm sau Đức Tả Quân xin từ chức Tổng Trấn Gia Định nhưng nhà vua không cho, bắt buộc Ngài phải ở lại. Nhưng chỉ mấy tháng sau thôi thì Ngài lâm trọng bệnh và mất ngày 30 tháng 7 năm Mậu Thìn (nhằm ngày 15 tháng 8 năm 1832) hưởng thọ 69 tuổi. Miếu mộ của Ngài được xây cất tại Bình Hòa Xả (Gia Định), nơi người dân Đồng Nai kính cẩn gọi là “Lăng Oâng,” “Lăng Ông Thượng,” hay đền thờ Đức Thượng Công, và các thiện nam tín nữ Trung Hoa tôn xưng là “Phò Mã Da Da Miếu.” NHỮNG ĐỨC TÍNH CAO QUÝ CỦA ĐỨC THƯỢNG CÔNG Thanh liêm, n_ thẳng, trong sạch Ngài là một vị quan rất mực thanh liêm, trong sạch. Dù có quyền hành thật lớn trong tay, Ngài không hề hiếp đáp kẻ dưới, không hề lấy của ai bất cứ tiền bạc hay của cải gì. Nhiều khi Ngài còn bỏ tiền túi ra để làm việc hữu ích cho dân. Ngài đi tới đâu là làm sạch sẽ tới đó. Tất cả những quan viên lớn nhỏ dưới quyền kiểm soát của Ngài cũng đều phải trong sạch, thanh liêm như Ngài. Quân lính của Ngài rất có kỷ luật, không hề phá phách, cướp bốc của dân. Ngài cai trị đến đâu là những kẻ nhũng lạm, hại dân đều phải rơi đầu đến đó, bất kỳ người đó là ai. Khi được triều đình cử đi dẹp loạn ở nơi nào, Ngài cũng cho điều tra kỹ để biết rõ nguyên nhân tại sao dân nỗi loạn. Khi biết chắc nguyên nhân của cuộc nổi loạn là do nơi đám quan lại sở tại tham nhũng, bức hiếp dân chúng, làm cho dân chúng quá khổ sở, không thể nào sống được nên phải nổi lọan, thì Ngài thẳng tay trừng trị bọn quan lại tham nhũng trước rồi kêu gọi những kẻ làm loạn trở về đầu thú với triều đình, sống lại cuộc đời lương thiện. Nhờ chính sách sáng suốt và rộng rãi đó mà Ngài đã dẹp loạn ở nhiều nơi một cách nhanh chóng, hữu hiệu, mà không tốn kém tiền bạc và nhân mạng. Chính sách này đã được Ngài cho áp dụng trong chiến dịch chiêu hồi Mọi Vách Đá vào những năm 1807 và 1808. Trong chiến dịch này Ngài đã cho xử trảm Chưởng Cơ Lê Quốc Huy, một tên đại tham nhũng, để đem bình yên an cư lạc nghiệp lại cho dân chúng. Năm 1819 Ngài được cử đi kinh lược hai trấn Thanh, Nghệ. Ở đây Ngài cũng áp dụng chính sách nói trên, thẳng tay trừng trị bọn quan lại tham ô rồi chiêu dụ những kẻ làm loạn trở về với triều đình. Đặc biệt là Ngài cho lập ra ba đội lính “Hồi Lương”(An Thuận, Thanh Thuận, và Bắc Thuận) gồm những thành phần nổi loạn đả trở về với triều đình.Việc làm nổi tiếng nhất của Ngài là xử tử Huỳnh Công Lý, Phó Tổng Trấn Gia Định. Huỳng Công Lý là cha của một bà thứ phi rất được vua Minh Mạng sủng ái. Ỷ thế cha vợ vua, Huỳng Công Lý vơ vét tiền của của dân chúng, hà hiếp kẻ yếu, hối lộ ngang nhiên trắng trợn. Tiếng kêu ca thấu đến tai Ngài Tổng Trấn, Ngài cho điều tra tận gốc. Có đủ bằng chứng Ngài dâng sớ lên triều đình hài rõ tội trạng của Huỳnh Công Lý. Sợ triều đình vị nể cha vợ của vua, không dám thẳng tay trừng trị, Ngài bèn ra lệnh xử trảm Huỳnh Công Lý trước khi có lệnh giải tội phạm về kinh của vua Minh Mạng. Từ thời Gia Long, Ngài đã được triều đình ban cho cái quyền “tiền trảm hậu tấu” (xử trảm trước rồi sẽ tâu lại với triều đình sau) để sử dụng ở biên cương hầu kịp thời đáp ứng với tình thế.Về đức tính thanh liêm trong sạch của bậc cha mẹ dân, Ngài là một tấm gương vô cùng sáng chói cho người làm quan cũng như nhiều công chức ở Miền Nam sau này. Dũng cảm, quả quyết, trọng nhân áiĐức thanh liêm của Ngài gắn liền với lòng dũng cảm. Ngài có cái dũng của đấng nam nhi, của bậc trượng phu, anh hùng. Ngài không rụt rè, e ngại hay sợ sệt khi phải hành động đúng lẽ phải và công lý. Hoàn cảnh có khó khăn nguy hiểm đến đâu Ngài cũng mạnh dạn dấn thân vì lòng trung quân ái quốc, vì dân vì nước. Vì sự thanh liêm trong sạch, vì lẽ phải Ngài không bao giờ hèn yếu khuất phục trước bất cứ kẻ quyền thế nào dù người đó là nhà vua đi nữa. Trường hợp Huỳnh Công Lý trên kia là một thí dụ điển hình. Ngoài ra khi vua Minh Mạng, vì tư thù và vì sợ bị mất ngôi, đem xử tội Tống Thị Quyên, vợ của Hoàng Tử Cảnh, một cách oan uổng, thì chỉ một mình Ngài can đảm dâng sớ lên vua xin tha tội cho người này. Việc làm của Ngài không khỏi làm cho Minh Mạng bực tức, giận ghét Ngài thêm, nhưng vì lẽ phải Ngài vẫn cứ làm. Hai lần Minh Mạng cử người vào Nam giữ chức vụ quan trọng đều bị Ngài gởi trả lại triều đình vì những người này chỉ là những kẻ tham tàn, hại dân hại nước mà thôi. Một trong những người đó là Bạch Xuân Nguyên mà sau này sẽ là đầu mối của cuộc nổi loạn ở trong Nam do Lê Văn Khôi chủ xướng. Minh Mạng không ưa thái độ xem như ương ngạnh của Ngài nhưng vẫn rất nể sợ tài năng, đức độ của Ngài nên không dám làm gì trong lúc Ngài còn sống, mà lại ôm ấp lòng giận ghét để sau này tìm cơ hội báo thù. Quan trọng nhất là việc Ngài không chịu thi hành lệnh cấm đạo hết sức gắt gao của Minh Mạng. Ngài cho rằng việc cấm đạo, bắt bớ giết chốc các nhà truyền giáo và các giáo dân, bế môn tỏa cảng không cho người Tây phương vào giao dịch, buôn bán, là một chính sách hết sức sai lầm. Trong Gia Định trấn (từ Phan Thiết đến Cà Mau), dưới sự cai trị của Ngài, không có sự cấm đạo và cũng không có sự bế môn tỏa cảng. Ngài không phản bội nhà Nguyễn, luôn luôn bảo vệ nhà Nguyễn, rất mực trung thành với nhà Nuuyễn, nhưng Ngài luôn luôn can đảm làm trái lệnh nhà vua nếu việc làm của Ngài có lợi cho quốc gia, cho triều đình, và cho người dân Nam Việt. Trung quân, ái quốcNgài luôn luôn trung thành với các vua nhà Nguyễn. Thuở thiếu thời Ngài đã theo phò vua Gia Long, vào sinh ra tử với nhà vua. Khi Gia Long mất, Ngài tiếp tục phò vua Minh Mạng, mặc dù Ngài không có thiện cảm với vị vua này. Ngài kính nể thương yêu hoàng tử Đán, con trai của hoàng tử Cảnh hơn. Cho nên khi Gia Long hỏi ý Ngài và Nguyễn Văn Thành về việc chọn người nối ngôi, thì Ngài và Nguyễn Văn Thành đều nói nên chọn hoàng tử Đán vì hoàng tử Đán là con trai lớn của hoàng tử Cảnh, là cháu đích tôn của nhà vua, và hơn nữa, theo Ngài thì hoàng tử Đán rất khôn ngoan nhân từ, những đức tính không tìm thấy ở nơi hoàng tử Đảm . Vua Gia Long chỉ hỏi cho có hỏi vậy thôi, chớ thật sự nhà vua đã có quyết định rồi. Nhà vua đã chọn thái tử Đảm làm người nối ngôi, vì theo nhà vua thì hoàng tử Đán còn quá trẻ (mới 12 tuổi) lại có tính khí hiền hòa giống như hoàng tử Cảnh, và như vậy sợ không gánh vác nổi việc lớn của triều đình. Thái tử Đảm, theo ý Ngài, là người không có lòng đại lượng vị tha, ngược lại, ông ta là kẻ có trái tim vị kỷ, nhỏ nhen, tàn bạo, ông ta rất thông minh nhưng cũng vô cùng nham hiểm. Biết vậy nhưng Ngài vẫn giữ một dạ trung quân ái quốc cho đến hơi thở cuối cùng. Uy Nghiêm, cứng rắn, nhưng rộng rải, anh hùng Ngài rất nghiêm nghị, rất uy nghi, ít có người dám nhìn thẳng vào mặt Ngài, kể cả những huân cựu đại thần ở trong triều. Chính vua Gia Long cũng công nhận rằng Ngài là bậc khai quốc công thần tính nghiêm mà thẳng, trị quân theo quân pháp, không nể nang bất kỳ ai. Nhất là đối với vua quan Xiêm và Chân Lạp. Họ rất nể sợ Ngài. Nhưng với dân chúng thì Ngài rất mực thương yêu, nhất là đối với những người biết hối cải thì Ngài lại rất bao dung rộng lượng. Nhiều kẻ nổi loạn, chống lại triều đình, đáng tội chết, vậy mà khi họ biết hối cải, trở về với triều đình thì Ngài lại dung tha và còn cấp ruộng đất cho họ để họ làm ăn sinh sống. Ngài chủ trương rằng khi mình đã dùng chính sách chiêu dụ họ về hàng, thì khi họ về với mình mình phải giữ đúng lời hứa, nếu không mình không phải là kẻ trượng phu, không còn xứng đáng với lòng tin của kẻ khác. Mất lòng tin thì những kẻ phiến loạn sẽ không cải tà quy chánh nữa, và loạn lạc sẽ kéo dài không biết đến bao giời mới hết. Rất sáng suốt, thấy xa, hiểu rộng, có chính sách cai trị vô cùng khôn ngoan Ngài là một người thấy xa, hiểu rộng, và rất sáng suốt trong việc cai trị. Ở địa vị Tổng Trấn Gia Định (xem như như một Phó Vương cai quản cả Miền Nam nước Việt), với tất cả quyền hành trong tay, Ngài đã đem lại cho người dân Miền Nam một nền hòa bình thịnh vượng chưa từng có trong lịch sử nước nhà. Đối ngoại Ngài đã thần phục Cao Miên và làm cho Xiêm La nể sợ không còn dám dòm ngó phá phách Việt Nam. Ngài chấp nhận giao thương với các nước Tây phương cũng như Trung Hoa, Miến điện chớ không nhắm mắt theo lệnh triều đình đóng cửa rút cầu không cho người ngoại quốc vào nước mình buôn bán. Ngài không thi hành lệnh cấm đạo của Minh Mạng, làm ngơ để cho các giáo sĩ được tự do truyền giáo ở trong Nam. Ngài chủ trương tôn giáo nào cũng tốt, cũng có nền đạo đức luân lý giúp con người sống lành mạnh tốt đẹp. Ngài bảo: “Đạo Thiên Chúa nước nào không có. Người ta đâu có ngăn cấm, sao nước mình lại đặt ra cái chỉ dụ kỳ cục vậy. Gây cảnh nồi da xáo thịt lại mang tội với đời sau.” Thay vì bế môn tỏa cảng theo lệnh của triều đình thì Ngài lại sẵn sàng đón nhận các phái bộ ngoại quốc đến xin tiếp xúc giao thương. Thay vì xem nhẹ việc buôn bán thì Ngài lại khuyến khích thương mại để đem nhiều quyền lợi về cho quốc gia dân tộc. Đối nội Ngài làm cho dân chúng được yên ổn làm ăn, lại tạo ra cơ hội để người dân góp phần phát triển kinh tế trong vùng. Ngài cho đào kinh, làm đường sá để cho sự giao thông trong nước cũng như giữa Việt Nam và Cao Miên được dễ dàng. Ngài khuyến khích người dân khẩn hoang lập ấp, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp. Ngài tạo điều kiện tốt cho các giống dân (Trung Hoa, Miên, và người ngoại quốc khác) sống ở đây hội nhập vào xã hội Việt Nam mới này để cùng chung sức làm cho đất nước được phồn thịnh. Về xã hội, nghĩ đến những người đã hy sinh vì nước để vợ con bơ vơ thiếu thốn, Ngài cho thiết lập hai cơ quan từ thiện là “Anh hài” và “Giáo dưỡng” để lo cho vợ con các chiến sĩ vị quốc vong thân. Tuy xuất thân là một võ quan, Ngài vẫn chú trọng đến việc phát triển văn hóa. Ngài dùng tiền do triều đình ban thưởng cho cá nhân Ngài để xây Văn Thánh Miếu khích lệ việc học của các sĩ tử. Công lao to tát đối với dân Đồng Nai Cửu Long Công lao của Ngài đối với người dân vùng Đồng Nai Cửu Long thật vô cùng to tát. Đó là công phát triển Miền Nam, làm cho vùng này trở nên vô cùng trù phú với một nền an ninh hết sức vững chắc (bởi chiến lược bảo vệ và phòng thủ phía Nam và phía Tây rất hữu hiệu của Ngài), làm cho dân Miền Nam được an hưởng hòa bình thịnh vượng, trong một xã hội trật tự nhưng cởi mở, tiến bộ. Trong lần hội kiến với Ngài tại Gia Định thành, Phan Thanh Giản đã hết sức kính phục thố lộ:“Gia Định này thật có phúc mới gặp được một Tổng Trấn như đại quan. Tôi ở Kinh Thành, ở Bắc Thành vào Gia Định thấy như đi qua một nước khác. Ở dọc sông thì trên bến, dưới thuyền, ghe thuyền san sát, lúa gạo nghìn nghịt. Vải vóc, đồ thau, đồ đồng, đồ sứ, đồ gốm, thảo mộc quý, quế, trầm, hồi thật là không thiếu thứ gì. Trên đất liền, nhà cửa phố xá san sát, khang trang. Đường đi lại lát gạch, lát đá sạch sẽ mát mắt.Cảnh dân theo đạo Thiên Chúa trốn chui, trốn nhủi như ở ngoài Bắc Thành, Kinh Thành, ngoài Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, vào đây không thấy. Cha truyền giáo vẫn đi lại bình thường trên đường phố. Tôi thật mừng. Mình làm quan thấy dân vui là mình vui. Làm quan chỉ biết vui phần mình thật đáng trách.”Năm 1822 một phái đoàn Anh do ông Crawfurd dẫn đầu có đến yết kiến Ngài Tổng Trấn. Trong dịp này Crawfurd thú nhận: “Đây là lần đầu tiên tôi tới Saigun (Sài Gòn) và Pingeh (Bến Nghé). Và tôi bất ngờ thấy rằng nó không thua gì kinh đô nước Xiêm. Về nhiều mặt trông nó còn sầm uất hơn, không khí mát mẻ hơn, hàng hóa phong phú hơn, giá cả hợp lý hơn và an ninh ở đây rất tốt, hơn nhiều kinh thành mà chúng tôi đã đi qua. Tôi có cảm giác như đây là một vương quốc lý tưởng.” Sau đó ông còn ghi lại trong quyển nhật ký của ông về những sinh hoạt của thành phố Sài Gòn lúc đó và tiếng tăm của Ngài Tổng trấn như sau:“Thành phố Saigun không xa biển, có lẽ cách độ 50 dặm; thành phố Pingeh (Bến Nghé) gần đó cách thành phố Saigun độ 3 dặm. Dinh Tổng trấn khá đồ sộ và uy nghiêm. Các thành trì nằm ở bờ sông An Thông hà. Nơi đây buôn bán sầm uất. Dân xiêu tán tới đây được Tổng trấn cho nhập hộ tịch, qua một hai đời đã trở thành người Gia Định. Đông nhất nơi đây là dân Trung Hoa. Các dân tộc nơi đây được nhà nước bảo hộ và họ đều có nghĩa vụ như nhau. Tất cả đều được sống trong bầu không khí an lành. Trộm cướp không có. Người ăn mày rất hiếm. Tổng trấn rất nhân từ, tha cả bọn giặc, bọn phỉ, bọn trộm cướp ăn năn. Nhưng ông lại rất tàn bạo với bọn cố tình không chịu quy phục triều đình. Chưa ở đâu kỷ cương phép nước được tôn trọng như ở đây. Một vị quan nhỏ ra đường ghẹo gái cũng bị cách chức lưu đày. Một đứa con vô lễ chửi mẹ Tổng trấn biết được cũng bị phạt rất nặng.Ở đây chúng tôi mua được rất nhiều lúa gạo, ngà voi, sừng tê giác, các hàng tơ lụa, đũi thật đẹp. Từ các nơi, dân đi thuyền theo các kênh rạch lên bán cho chúng tôi. Nhìn dân chúng hân hoan vui vẻ, chúng tôi biết dân no đủ. Nhiều người rất kính trọng vị Tổng trấn của họ.Con người này ít học. Nhưng lạ lùng thay là có được cái nhìn cởi mở hơn nhiều những đại thần và cả nhà vua học rộng, làu kinh sử của Khổng giáo. Ngài sống thanh liêm, muốn mở mang đất Gia Định này trù phú hơn mọi quốc gia khác ở trong vùng biển Đông.” Ngài vô cùng linh hiển đối với người dân Đồng Nai Cửu LongTương truyền rằng tướng tinh của Ngài là con cọp bạch. Người ta thấy lúc Ngài ngủ ban đêm con cọp bạch thường hiện ra chập chờn bên cạnh Ngài. Lúc chưa theo phò Nguyễn Ánh Ngài thường dùng thần lực oai nghiêm của mình làm cho những con cọp hay về bên Rạch Ông Hổ phải khiếp sợ bỏ đi. Người ta cũng truyền tụng rằng những con hổ mà Ngài cho nuôi để giao đấu rất sợ Ngài, luôn luôn nghe lệnh chỉ bảo của Ngài. Con voi (đặt tên Ba Sao) của Tổng Trấn Bắc Thành Lê Chất tặng Ngài là con voi rất dữ dằn không ai trị nỗi. Mỗi khi nổi cơn giận lên là nó phá phách, dày xéo một cách khủng khiếp, không ai có thể làm gì được nó. Chỉ một mình Ngài đến trước con vật khổng lồ, gọi tên nó, là Ngài làm cho nó dịu lại và tuân theo lệnh Ngài n_. Rồi một hôm nghe đồn ở Tây Ninh có một cô gái tên là Lý Thị Thiên Hương rất là linh hiển, Ngài bèn đến tận nơi để biết thực hư. Lúc Ngài đến thì cô Lý Thị Thiên Hương nhập vào xác một cô gái đến nói với Ngài như sau: “Tôi xin mách bảo trước cho Thượng Quan được biết là hồn của Thượng Quan sau này sẽ được phong thần và sẽ rất là linh hiển, nhưng xác của Thượng Quan thì sẽ bị hành hạ, mả bị xiềng xích, tên tuổi bị đục khoét trong 12 năm, sau đó Thượng Quan sẽ được minh oan và sẽ được phục hồi danh vị cũ.” Sau khi Ngài mất rồi thì Minh Mạng bãi bỏ tổng trấn Gia Định, chia ra thành tĩnh, cử Bạch Xuân Nguyên làm Bố chánh sứ tại thành Phiên An (tức là Sài Gòn). Bạch Xuân Nguyên là kẻ tham tàn gian ác, trước đây đã được Minh Mạng đưa vào làm Phó Tổng Trấn Gia Định và đã bị Đức Tả Quân gởi trả lại triều đình. Vào làm bố chánh lần này, Bạch Xuân Nguyên quyết định trả mối thù xưa. Biết Minh Mạng không ưa Đức Tả Quân, Bạch Xuân Nguyên muốn lập công với nhà vua nên kiếm chuyện điều tra, bới móc, hạch hỏi những tay chân bộ hạ của Đức Tả Quân với thái độ hách dịch với lời lẽ xúc phạm đến Ngài Tổng Trấn mặc dù Ngài đã là người thiên cổ. Con nuôi của Đức Tả Quân là Lê Văn Khôi không chịu được thái độ trịch thượng và hành động lưu manh thù vặt của Bạch Xuân Nguyên nên tỏ ra bất bình chống đối. Bạch Xuân Nguyên đem nhối Lê Văn Khôi và nhiều người trong đao lính Hồi Lương của Đức Tả Quân. Nhờ có người giúp Lê Văn Khôi và 27 người khác trong số người Hồi Lương thoát khỏi ngục bèn nổi lên giết chết Bạch Xuân Nguyên rồi tổ chức làm loạn chống lại triều đình. Việc làm của Bạch Xuân Nguyên gây sự công phẫn lớn lao trong đám quân nhân cũng như dân chúng Miền Nam vì ở đây ai ai cũng mến thương kính nể Đức Tả Quân xem Ngài như vị thần bảo hộ cho người dân vùng này. Cho nên chỉ trong vòng một tháng tất cả 6 tĩnh Miền Nam đều theo Lê Văn Khôi. Thanh thế của Lê Văn Khôi rất lớn làm cho Minh Mạng hết sức lo sợ phải cử một đoàn binh hùng tướng mạnh vào Nam dẹp loạn. Cuối năm này (1833) Lê Văn Khôi bị bệnh chết nhưng đám người theo ông vẫn cố thủ trong thành. Quân triều đình bao vây bên ngoài nhưng không làm gì được. Mãi đến năm 1835 lương thực cạn khô thành Phiên An mới bị hạ. Có 6 tội phạm bị đóng cũi gởi về Kinh, còn tất cả binh sĩ và nam phụ lão ấu trong thành (cả thảy 1831 người) đều bị chém hết và chôn chung trong một hầm gọi là “Mã Ngụy.” Đối với Đức Tả Quân, Minh Mạng cố dằn cơn giận, dụ rằng: “Lê Văn Duyệt tội nhiều đếm không xuể, càng nói càng đau lòng, bổ quan tài mà chém xác cũng không quá đáng. Nhưng nghĩ rằng nó chết đã lâu, còn cái xương khô trong mã cũng chẳng cần gia hình. Nay sai Tổng Đốc Gia Định đến chỗ mã Duyệt cào bằng, đánh 100 trượng, khắc to 8 chữ “Quyền Yêm Lê Văn Duyệt phục pháp xứ.” Từ đó trên ngôi mộ bị cào bằng của Ngài có một sợi xiềng sắt và một bia đá có khắc 8 chữ nói trên. Người ta kể lại rằng ít lâu sau trong một giấc mơ Minh Mạng gặp Đức Tả Quân. Minh Mạng hỏi Duyệt đi đâu đó? Đức Tả Quân, mắt đỏ như hai hòn than, trả lời: “Không còn nhà, đi lang thang chơi, không ngờ lại bước vào Tử Cấm Thành.” Nói xong Ngài biến mất. Minh Mạng sợ quá cho dẹp bia đá và sợi xích và để cho con cháu Đức Tả Quân sau này tự sửa đắp mả lại. Dân trong vùng Gia Định xưa đã đến dựng lên ngôi đền thờ bề thế gọi là “Lăng Oâng.” Lăng Ông linh thiêng vô cùng đối với người dân Gia Định cũng như cả dân chúng Miền Nam nói chung. Sau này vua Tự Đức nghĩ đến công lao của Đức Tả Quân mới truy phục nguyên hàm cho Ngài là: “VỌNG CÁC CÔNG THẦN CHƯỞNG TẢ QUÂN BÌNH TÂY TƯỚNG QUÂN QUẬN CÔNG.”Cũng từ đó những người dân từ mọi nơi của Gia Định xưa (từ Phan Thiết đến Cà Mau) đã đến nơi đây dâng hoa, đốt hương cho Đức Thượng Công. Không ngày nào hương khói ở đây không nghi ngút. Rồi khi đêm xuống không khí ở đây âm u rùng rợn, người ta nghe thấy tiếng ma khóc, tiếng người ngựa rầm rộ đi. Dân cư ở quanh vùng ban đêm không ai dám đến gần, người đi qua đường phải lánh xa chỗ ấy. Người ta đồn Ngài rất linh hiển. Một lần nọ có một đoàn rước sắc thần đi ngang qua lăng miếu Đức Thượng Công, chiêng trống ầm ĩ mà không cử người vào bái yết Đức Oâng, thế là cả người lẫn kiệu của đám rước tự nhiên bị quật ngã giữa đường. Sau đó có người chợt nhớ ra vội hướng vào lăng Ông khấn vái tạ lỗi rồi thì đoàn rước mới được đi qua bình an. Những người làm việc cho chính quyền, có đầu óc vô thần, tỏ vẻ xấc láo với thần linh trước miếu thờ Đức Thượng Công đều bị Ngài trừng phạt nặng nề. Ngày nay trong dân gian ai cũng nghe nói đến sự hiển linh của Ngài. Ngài luôn luôn trừng phạt những kẻ gian, kẻ trộm cướp, kẻ xấc láo vô lễ, kẻ thề thốt man trá trước lăng miếu của Ngài. Người ta hay nói đến những trường hợp bị ‘Oâng vật”, “Oâng bẻ cổ” hay “Oâng bắt hộc máu,” để chỉ những trừng phạt đó. Trước đây các cơ quan hay hãng sở có vụ án bí ẩn không tìm ra manh mối thì người ta thường đưa các đương sự đến “Lăng Oâng” cho thề trước đền thờ Ngài. Ngược lại nhiều người thường dân làm ăn lương thiện hay đến cầu xin Ngài giúp cho họ sự bình yên, thành công trong việc làm, thi cử đổ đạt, thành tựu trong việc cưới xin, bệnh hoạn chống khỏi,vv hầu hết đều được Ngài chứng tri giúp đỡ. Tiếng đồn về việc Đức Thượng Công hiển linh thường hay thi ân, giáng họa được truyền tụng mỗi lúc một lan xa trong dân chúng từ xưa đến giờ và mãi mãi về sau này. LỜI KẾTNếu người dân Đồng Nai Cửu Long xưa kia may mắn có được một nhà cai trị khôn ngoan, nhân đức, sáng suốt, biết thương dân thương nước như Đức Thượng Công khi Ngài còn tại thế và làm Tổng Trấn Gia Định thành, thì ngày nay dân chúng Miền Nam cũng vô cùng hãnh diện và may mắn có một vị thần bảo hộ hết sức hiển linh như Đức Tả Quân. Tiếc rằng dân Việt Nam nói chung không được cái may mắn đó vì triều đình Minh Mạng cũng như đa số các đại thần của triều đình này không có được cái khôn ngoan nhân đức và lòng thương nước thương dân của Ngài Chưởng Tả Quân Bình Tây Tướng Quân Quận Công.” Nếu như triều đình và các đại thần của triều đình này cũng khôn ngoan, thấy xa, hết lòng vì dân vì nước, áp dụng chính sách cai trị khôn khéo, cởi mở của Đức Thượng Công đã áp dụng trong Miền Nam thì cả nước Việt Nam đã sớm trở thành một nước tiến bộ hùng cường như Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ XX rồi, và người dân Việt Nam đã được ấm no hạnh phúc như những người dân trong các xã hội tiến bộ khác từ lâu. Người đời sau nếu thật lòng thương dân thương nước, nếu thật lòng muốn cho xã hội tiến bộ, dân chúng ấm no hạnh phúc, thì nên học hỏi chính sách cai trị khôn ngoan sáng suốt cởi mở của Đức Thượng Công. Ngài thật vô cùng xứng đáng làm tấm gương cho người làm chính trị sau này, xứng đáng được sự nhớ ơn đời đời cũng như sự tin tưởng phụng thờ và sùng bái ngàn năm của người dân Nam Việt vậy. LĂNG ÔNG BÀ CHIỂUtứcLĂNG ĐỨC THƯỢNG CÔNG LÊ VĂN DUYỆTNguyễn Thanh Liêm Người dân Miền Nam trong bản chất chất phác cố hữu của họ, họ luôn luôn nhớ ơn những anh hùng, những quan viên, khi sinh tiền đã thương yêu lo lắng bảo vệ cho họ, làm cho đời sống của họ được bình yên no ấm, và khi quy tiên trở nên linh hiển tiếp tục giúp đỡ phù hộ cho họ vượt qua những cơn ngặt nghèo hay gặp được ít nhiều may mắn trong công việc làm ăn của họ. Những vị anh hùng, hay những quan viên đó luôn được họ yêu thương sùng bái lúc sống cũng như khi đã khuất. Họ kính trọng tôn sùng những vị đó hơn cả nhà vua, hơn cả những vị anh hùng dân tộc được người xưa thờ phụng vì những vị này gần gũi với họ hơn. Nơi an nghỉ của những vị này thường được gọi là LĂNG, được người dân đem công sức và tiền của ra tu bổ, làm đền thờ để tháng năm thăm viếng thờ phụng. Nhiều nhà giàu có tiếng tăm khi chết đi cũng được con cháu dùng chữ lăng để gọi miếu mộ họ.Trong quyển Sài Gòn Năm Xưa, ông Vương Hồng Sển có ghi một số các Lăng Mộ ở vùng Sài Gòn-Gia Định. Đó là Lăng Thượng Công Lê Văn Duyệt ở tại chợ Bà Chiểu, Lăng Phò Mã Hậu Quân Võ Tánh nằm trong vùng đất quân sự, Lăng Long Vân Hầu Trương Tấn Bửu ở trên đường Trương Tấn Bửu, Lăng Bình Giang Bá Võ Di Nguy ở Phú Nhuận, Lăng Bá Đa Lộc thường gọi là Lăng Cha Cả ở Tân Sơn Nhứt, Lăng Nguyễn Văn Học được người Pháp gọi là “tombeau du Marechal Nguyễn Văn Học”, Lăng Ông Nhiêu Lộc trong sân bay Tân Sơn Nhứt. Ở các tĩnh có Lăng Nguyễn Huỳnh Đức, Lăng Trương Công Định, vv. . . Trong số các Lăng ở Miền Nam, Lăng Ông Ở chợ Bà Chiểu là quan trọng nhất, được nhiều người biết đến nhất. Người dân Miền Nam biết Lăng Ông là Mộ phần của Đức Thượng Công hay Đức Tả Quân Lê Văn Duyệt. Người dân Miền Nam tin rằng Đức Thượng Công rất linh hiển, luôn luôn phò hộ cho người dân trong vùng Ngài làm Tổng Trấn, giúp dân chúng vượt nhiều cảnh khó khăn khốn cùng khi họ đến cầu xin Ngài. Hằng năm không biết bao nhiêu người đã đến đây xin xăm, hái lộc, van vái cầu xin sự bình an hạnh phúc cho gia đình mình. LĂNG ÔNG: BIỂU TƯỢNG CỦA MIỀN NAMCách đây không lâu, một số cộng đồng người Việt tị nạn tại San Jose đã họp nhau lại dự định cùng chung sức xây dựng một công viên đặc biệt Việt Nam gọi là Công Viên Văn Hóa. Theo dự tính thì trong công viên sẽ có ba di tích lịch sử tượng trưng cho ba miền Nam, Trung, Bắc của dân tộc Việt. Uûy ban đặc trách Công Viên Văn Hóa ở San Jose đã lựa chọn Chùa Một Cột làm biểu tượng cho nhánh văn hóa Miền Bắc, Chùa Thiên Mụ biểu tượng cho nhánh văn hóa Miền Trungï, và Lăng Ông Bà Chiểu tức Lăng Đức Thượng Công Lê Văn Duyệt làm biểu tượng cho nhánh văn hóa Miền Nam. Đây là một lựa chọn rất có lý và rất có ý nghĩa. Lăng Ông Bà Chiểu được xem là biểu tượng của Miền Nam vì nhiều lý do:Nằm n_ tại Sài Gòn-Gia Định, Thủ Đô của Miền Nam từ lúc Miền này được thành hình, Lăng Ông Bà Chiểu là một di tích lịch sử quan trọng của nền văn hóa Việt Nam. Cơ sở khang trang nằm trên long mạch rất tốt về phương diện phong thủy, lại được dân chúng bồi đắp tu bổ săn sóc luôn nên càng ngày càng uy nghiêm hùng tráng. Đông đảo dân chúng, người Việt cũng như người Hoa vùng Sài Gòn-Gia Định và các tĩnh lân cận rất sùng bái Đức Thượng Công (mà người Hoa xưng tụng là Phò Mả Da Da), thường tới Lăng Ông xin xăm, cầu nguyện, lễ bái. Sự linh hiển của Đức Thượng Công cũng như sự linh thiêng của Lăng Ông luôn được dân chúng Miền Nam nhắc nhỡ. Một hội tế tự cũng đã được thành hình từ nhiều năm nay dưới danh xưng “Hội Thượng Công Quý Tế”để lo việc bảo tồn di tích lịch sử cũng như truyền thống tế tự đặc biệt tại Lăng Đức Thượng Công. Nhưng lý do quan trọng nhất để người dân Miền Nam chọn lựa Lăng Ông làm biểu tượng của Miền này là NHÂN CÁCH, ĐỨC ĐỘ, CÔNG ƠN của Đức Thượng Công cũng như TẤM LÒNG của Ngài đối với người dân và vùng GIA ĐỊNH xưa tức là cả vùng ĐỒNG NAI-CỬU LONG hay trọn vùng NAM KỲ LỤC TĨNH sau này.NHÂN CÁCH, ĐỨC ĐỘ CỦA ĐỨC THƯỢNG CÔNGTuy sinh trưởng trong gia đình nông dân ít học và không mấy khá giả, không có cơ hội học hành để có vốn học thức cao thâm, nhưng Đức Thượng Công có tính thông minh Trời cho cùng với cách suy tư và hành động của người quân tử. Không học nhiều nhưng Ngài biết nhiều về truyện Tàu, nhất là có những nhận xét rất sâu sắc về nhân cách và hành vi của những nhân vật đặc biệt trong đó. Ngài học hỏi cách xử sự anh hùng, trung dũng, n_ thẳng của nhân vật này để áp dụng trong cuộc đời làm quan phò vua, giúp nước, trị dân của Ngài. Ngài hết lòng phò vua Gia Long, đánh Nam dẹp Bắc, giúp Gia Long thống nhất giang san lập nên Nhà Nguyễn. Ngài là một trong những “ĐỆ NHẤT CÔNG THẦN” của Nguyễn triều. Ngài luôn giũ dạ trung thành đối với Nhà Nguyễn dù sau này Ngài không ưa thích kính phục vua Minh Mạng. Ngài giàu lòng từ thiện nhân ái đối với những kẻ yếu đuối cô thế, lúc nào Ngài cũng sẵn sàng đem hết tài sức mình ra giúp đỡ bảo vệ họ, chống lại sự chèn ép, hà hiếp, áp bức của những kẻ mạnh, ỷ quyền, cậy thế. Ngài vốn hết sức thanh liêm, đi tới đâu là thẳng tay trừng trị bọn quan lại tham tàn bốc lột, bức hiếp dân lành tới đó. Ngài rất sáng suốt trong chánh sách trị loạn. Ngài biết rõ sở dĩ dân lành phải nổi loạn vì họ không còn sống nổi dưới ách cai trị áp bức tàn nhẫn của bọn quan lại tham lam ích kỷ cho nên muốn bình định cho hữu hiệu thì phải quét sạch hết đám quan lại tham nhũng. Ngài đến đâu là đem lại sự an bình thịnh vượng cho người dân đến đó. Ngài có cái uy dũng mà người, (nhất là những kẻ bất lương) và vật đều khiếp sợ. Những con voi, cọp dữ dằn đều khuất phục dưới cái uy nghi của Ngài. Người Xiêm (Thái Lan), người Chân Lạp (Khờ Me), người Lào đều sợ oai Đức Thượng Công. Người Aâu Tây sang buôn bán có dịp yết kiến Ngài đều rất kính nể Ngài. CÔNG ƠN CỦA ĐỨC THƯỢNG CÔNGTừ năm 22 tuổi là năm Ngài bắt đầu theo phò vua Gia Long trên đường phục quốc, cho đến năm 69 tuổi là năm Ngài trút hơi thở cuối cùng, Ngài đã trải thân phụng sự cho triều đình, cho quốc gia dân tộc, trong suốt hơn 45 năm. Đối với triều Nguyễn Ngài là đệ nhất công thần được miễn lạy khi vào chầu vua, và được đặc quyền “tiền trảm hậu tấu” ở ngoài triều nội. Công lao của Ngài đối với triều Nguyễn và tổ quốc Việt Nam thật hết sức lớn lao nhưng công lao đó không phải là công ơn để cho dân Miền Nam ghi nhớ và tôn thờ Ngài từ hơn thế kỷ nay. Công lao lớn nhất của Ngài mà người dân Đồng Nai Củu Long đời đời mang ơn tôn kính là công khai phá, mở mang, phát triển vùng đất Gia Định xưa chạy dài từ Bình Thuận đến Cà Mau nơi Ngài đã từng hai lần làm Tổng Trấn. Xin nhắc lại là khi vừa thành hình trong thập niên 1770 và bắt đầu phát triển chưa được bao lâu thì Miền Nam bị quân Nguyễn Nhạc và Nguyễn Lữ trên đường rượt đuổi Nguyễn Aùnh, tàn phá cướp bốc tan tành. Dân chúng vô cùng khốn khổ với những cuộc nội chiến tàn phá này. Sơn Nam trong quyển “Lịch Sử Khẩn Hoang Miền Nam” ghi lại như sau, căn cứ trên Gia Định Thông Chí:“Trước năm 1776, thương cảng lớn nhứt của Miền Nam là cù lao Phố. Năm 1776 và 1777 quân Tây Sơn tràn vào Gia Định, đánh cù lao Phố “chiếm dỡ lấy phòng ốc, gạch đá, tài vật chở về Qui Nhơn.” Nông Nại Đại Phố tức là thương cảng cù lao Phố suy sụp luôn, thương gia Hoa Kiều bèn kéo nhau xuống vùng Chợ Lớn ngày nay để lập chợ Sài Gòn, sát với chợ Tân Kiểng thành hình từ trước 1770.Thương cảng Sài Gòn (nên hiểu là Chợ Lớn ngày nay) thành hình và phát triển nhanh từ năm 1778. . . Nhưng 4 năm sau, năm 1782, Nguyễn Nhạc tới 18 thôn Vườn Trầu, bị phục kích thua thảm hại, hộ giá Ngạn của Tây Sơn tử trận. Nhạc nhận ra bọn phục kích là đạo binh Hòa Nghĩa gồm nhiều người Tàu theo giúp Nguyễn Aùnh.”Nhạc bèn giận lây, phàm người Tàu không kể mới cũ đều giết cả hơn 10.000 người. Từ Bến Nghé đến sông Sài Gòn, tử thi quăng bỏ xuống sông làm nước không chảy được nữa. Cách 2, 3 tháng người ta không dám ăn cá tôm dưới sông. Còn như sô, lụa, chè, thuốc, hương, giấy, nhất thiết các đồ Tàu mà nhà ai đã dùng cũng đều đem quăng xuống sông, chẳng ai dám lấy, qua năm sau, thứ trà xấu một cân giá bán lên đến 8 quan, 1 cây kim bán 1 tiền, còn loại vật khác cũng đều cao giá, nhân dân cực kỳ khổ sở”.Ngoài việc trả thù riêng người Tàu, Nguyễn Nhạc còn có dụng tâm tiêu diệt đầu não kinh tế của miền Nam, nơi chúa Nguyễn nắm được nhân tâm từ lâu.” (tr. 41-43) Ở trấn Vĩnh Thanh, trong lúc Tây Sơn vào chiếm cứ thì dân chúng “đều chôn cất của cải không dám phơi bày ra, cho nên bọn cường đạo không cướp lấy được vật gì.” “Chợ phố lớn Mỹ Tho, nhà ngói cột chạm, đình cao chùa rộng, ghe thuyền ở các ngả sông biển đến đậu đông đúc làm một đại đô hội rất phồn hoa huyên náo. Từ khi Tây Sơn chiếm cứ, đổi làm chiến trường, đốt phá gần hết, từ năm Mậu Thân (1788) trở lại đây, người ta lần trở về, tuy nói trù mật nhưng đối với lúc xưa chưa được phân nữa.”Chánh sách của Tây Sơn ở miềnNam là phá căn cứ địa, chận các đường thủy từ Sài Gòn, Cần Giờ đến vùng vàm sông Củu Long, chận các vị trí chiến lược nối liền Tiền Giang qua Hậu Giang.” (tr. 45-46) Cuộc nội chiến đã gây bao nhiêu tàn phá đổ vở cho Miền Nam trên đường phát triển, gây trở ngại lớn lao cho dân chúng Miền Nam trên đường gầy dựng sự nghiệp. Đâu đâu dân chúng cũng mong đợi cảnh hòa bình, cuộc trị an, cơ hội thuận lợi để làm ăn xây dựng lại cuộc đời, xây dựng lại nền an ninh thịnh vượng cho xứ sở. Những mong ước chính đáng đó của người dân Đồng Nai Cửu Long đã được đáp ứng đúng sau khi Gia Long thống nhất đất nước và nhất là khi Đức Thượng Công Lê Văn Duyệt hai lần vào làm Tổng Trấn Gia Định.Ngài đã làm cho người Xiêm La nể sợ không dám dòm ngó phá phách Việt Nam. Ngài làm cho Cao Miên hết sức cám ơn thần phục, luôn trông cậy vào sự bảo vệ của Ngài. Ngài cho đào kinh, mở đường để sự giao thông được nhiều phần tiện lợi trong vùng Đồng Nai Cửu Long, cũng như giữa Cao Miên và Miền Nam nước Việt để cho việc vận chuyển quân binh cũng như hàng hóa được dễ dàng thuận lợi. Ngài kiểm soát chặt chẽ các quan viên lớn nhỏ trong vùng cai trị của Ngài để không có nạn tham nhũng, chèn ép áp bức dân lành xảy ra, để cho người dân được yên lòng làm ăn. Trong khi triều đình chủ trương bế môn tỏa cảng, xem thường thương mãi (theo đúng thứ tự Sĩ, Nông, Công, Thương của nho gia), không giao tiếp với các nước ngoài (ngoại trừ Trung Hoa), triệt để cấm đạo Thiên Chúa, thì ở Gia Định sự giao thương được mở rộng, việc giảng đạo không bị bắt bớ, người dân lương thiện có cơ hội làm ăn, gầy dựng, phát triển sự nghiệp của mình trong không khí an bình thuận lợi. Nhờ chính sách cai trị sáng suốt và nhân đạo đó mà sau bao năm bị tàn phá cướp bốc, Miền Nam lại sống dậy, phát đạt và phồn thịnh chưa từng thấy trong toàn cõi Việt Nam (xin xem thêm bài “Khâm Sai Gia Định Thành Tổng Trấn Chưởng Tả Quân Quận Công Lê Văn Duyệt” trong đặc san này). Công ơn lớn lao đó của Ngài Tổng Trấn không bao giờ ngừơi dân Đồng Nai Cửu Long có thể lãng quên. Họ đời đời ghi nhớ. TẤM LÒNG CỦA ĐỨC THƯỢNG CÔNG Tấm lòng của Ngài đối với vùng đất Gia Định và người dân Đồng Nai Củu Long thật như trời biển. Ngài đúng là bậc cha mẹ dân luôn luôn thương dân như con đẻ. Có thể nói là đối với Ngài “dân vi quí, xã tắc thứ chi” vậy. Chính vì vậy mà người dân Gia Định mang ơn Ngài, tôn sùng Ngài hơn cả vua chúa, hơn cả những vị anh hùng dân tộc thường được lịch sử ca tụng từ trước đến giờ. Trong quyển tiểu thuyết lịch sử “Lê Văn Duyệt, Từ Nấm Mồ Oan Khuất Đến Lăng Oâng” của Hoàng Lại Giang có một đoạn văn nói lên tâm trạng buồn lo và tấm lòng của Ngài đối với quê hương xứ sở như sau:“Lâu nay ta vẫn coi chết sống là lẽ thường. Ta chẳng đã từng bao lần đứng trước cái chết, vậy mà ta không chết. Vậy thì chết đâu phải dễ. . . Dẫu sao ta vẫn là ta, là Lê Văn Duyệt. Mong ước của ta là trừ khử được lũ cường bạo, giúp những người dân lành vô tội, sống đói rách mà quanh năm vẫn phải quần quật. . .Ta muốn trở về quê ta, trở về Gia Định. Dân Gia Định là dân cùng đường chạy về đây. Chính đám dân này đã khai sáng đất Gia Định này. Họ sống hào hiệp nghĩa khí lắm.Đời ta nghĩ lại, có gì đâu. Không vợ, nhà vua cho cung phi làm vợ. Không con, lấy cháu làm con. Ta không ham hố điều gì. Ta coi thường mọi công danh.Phải, ta sẽ trở về với dân Gia Định thuở hàn vi. Chút tình quê hương, chút nghĩa đồng bào một thuở. . . , tranh thủ mà ơn đền nghĩa trả. Công lớn lắm. Nghĩa nặng lắm. Dân không bao giờ đòi ta. Bao giờ nhắc tới dân Gia Định ta cũng thấy mình mang nợ.” (tr. 93)Trên đây là một đoạn văn tiểu thuyết nhưng người viết tiểu thuyết đã phần lớn thấy đúng tâm trạng của Đức Thượng Công. Ngài thương dân Gia Định, Ngài thương đất Gia Định vô cùng. Ngài đã đem tất cả tài sức giúp dân, giúp quê hương xứ sở. Tấm lòng của Ngài đối với dân Đồng Nai Cửu Long và mảnh đất thân yêu này thật là vô bờ bến. Sống đã vậy mà khi mất đi rồi vẫn tiếp tục bảo bọc phù hộ con dân của mình. Thác rồi Ngài trở thành một vị thần hiển linh mà người dân Gia Định hết lòng tín ngưỡng phụng thờ. Lăng Ông Bà Chiểu nổi tiếng từ bấy lâu nay là vậy. Lăng Ông Bà Chiểu rất xứng đáng làm biểu tượng cho cả Miền Nam
source
The Gioi Nguoi Viet
Tuesday April 28, 2009 - 09:52pm (EDT)
Permanent Link 0 Comments
Vua Quang Trung với Hoàng Sa, Trường Sa theo Báo Bình Định

Mô tả trong nhiều tài liệu lịch sử khẳng định lực lượng hải quân Tây Sơn trong thực tế đã kiểm soát được các tuyến giao thông trên biển và là chủ nhân của các vùng đảo, quần đảo giữa Biển Đông.
Di tích miếu Hoàng Sa ngày nay vẫn tồn tại ở đình làng Lý Hải thuộc đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Công việc thực thi chủ quyền ở khu vực hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thật sự được bắt đầu khi chúa Nguyễn Phúc Nguyên lên nắm quyền và đặt ra các đội Hoàng Sa, Bắc Hải đặc trách công việc khai thác và bảo vệ Biển Đông từ tuyến ngoài. Đây là một phương thức thực thi chủ quyền độc đáo của Nhà nước Việt Nam trên các vùng quần đảo giữa Biển Đông mà không có bất cứ một quốc gia nào trong khu vực có được…
Thành tựu vĩ đại của phong trào nông dân Tây Sơn là đã bước đầu thống nhất được đất nước sau nhiều thế kỷ bị chia cắt thành hai khu vực Đàng Trong và Đàng Ngoài. Đây cũng là lần đầu tiên sự thống nhất được thực hiện trên phạm vi rộng lớn tương đương với nước Việt Nam ngày nay và cũng là lần đầu tiên, toàn bộ đường bờ biển chạy dài từ Vịnh Bắc Bộ đến Vịnh Thái Lan với hàng nghìn hòn đảo ven bờ cùng các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa ngoài Biển Đông đã thuộc về quyền kiểm soát của Việt Nam.
Giống như các chúa Nguyễn trước đây, triều đại Tây Sơn của Quang Trung - Nguyễn Huệ vẫn tiếp tục tổ chức các đội Hoàng Sa và Bắc Hải với chức năng chủ yếu là bảo vệ và khai thác vùng quần đảo xa giữa Biển Đông. Đội Hoàng Sa thời kỳ chúa Nguyễn được ấn định số lượng 70 suất và hoàn toàn chỉ chọn người xã An Vĩnh thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Hằng năm, cứ vào tháng Hai, đội xuất hành gồm 5 chiến thuyền ra Hoàng Sa, Trường Sa thu nhặt
hoá vật của tàu bị nạn, tìm kiếm hải vật và ở lại đây đến tháng tám mới trở về nộp cho triều đình Phú Xuân. Đội Bắc Hải tuyển người ở thôn Tứ Chính và xã Cảnh Dương thuộc tỉnh Bình Thuận và không cố định số suất thuỷ thủ như đội Hoàng Sa.
Phong trào nông dân Tây Sơn khi bùng nổ đã phát triển rất nhanh và đến cuối năm 1773, đã giải phóng được một vùng rộng lớn từ Quảng Nam ở phía Bắc cho đến tận Bình Thuận ở phía Nam. Như thế là toàn bộ các vùng quê hương của hai đội Hoàng Sa và Bắc Hải, từ rất sớm đã nằm trong khu vực kiểm soát của quân Tây Sơn.
Vào ngày 15 tháng Giêng năm 1776, Cai hợp phường Cù Lao Ré (đảo Lý Sơn) là Hà Liễu đã làm đơn trình bày rõ: “Bây giờ chúng tôi lập hai đội Trường Sa và Quế Hương như cũ gồm dân ngoại tịch, được bao nhiêu xin làm sổ sách dâng nạp, vượt thuyền ra các đảo, cù lao ngoài biển tìm nhặt vật hạng đồng thiếc, hải ba, đồi mồi dâng nạp. Nếu như có tờ truyền báo, xảy chinh chiến, chúng tôi xin vững lòng ứng chiến với kẻ xâm phạm. Xong việc rồi chúng tôi xin tờ sai ra tìm báu vật cùng thuế quan đem phụng nạp”. Tờ đơn đã được chính quyền Tây Sơn (vua Thái Đức) xem xét, chuẩn cho và hiện vẫn còn lưu giữ lại nhà thờ họ Võ, phường An Vĩnh (nay là thôn Tây, xã Lý Vĩnh, huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi).
Cũng tại nhà thờ họ Võ, đến nay vẫn còn giữ được chỉ thị ngày 14 tháng Hai năm thứ 9 hiệu Thái Đức (1786) của Thái Phó Tổng Lý Quản binh dân chư vụ Thượng tướng công “Sai Hội Đức hầu Cai đội Hoàng Sa luôn xem xét đốc suất trong đội cắm biển hiệu
thuỷ quân, cưỡi bốn chiếc thuyền câu, vượt biển thẳng tiến Hoàng Sa cùng các sứ cù lao ngoài biển, tìm nhặt đồ vàng, bạc, đồng và các thứ đại bác, tiểu bác, đồi mồi, vỏ hải ba, đá quý… đều chở về kinh tập trung nộp theo lệ. Nếu ngạo mạn càn bậy không đến, lại gian dối lấy bớt các vật quý hoặc sinh sự với dân làm muối, làm cá đều sẽ bị trị tội”.
Ngoài ra còn có bản Ngự phê lời tâu của dân xã An Vĩnh về việc dâng nộp các loại đồi mồi, hải ba, quế hương và xin miễn sưu dịch đã được thánh chỉ ban thưởng vàng và phê “chuẩn cho”. Văn bản chép rõ: “Niên hiệu Thái Đức năm đầu đến năm thứ 15 (1778-1792)” và “niên hiệu Cảnh Thịnh năm đầu đến năm thứ 9 (1793-1801). Khi ấy John Brrow là phái viên của phái bộ Macartney đi từ Anh sang Trung Quốc có ghé qua khu vực Đà Nẵng vào tháng 6 năm 1793 (dưới triều vua Quang Toản)”. Trong tập “A Voyage to Cochinchina, in the year 1792-1793” (Một chuyến du hành tới xứ Đàng Trong, vào những năm 1792-1793) mô tả: “Tàu thuyền xứ Đàng Trong có nhiều kiểu dáng khác nhau, được dùng vào việc buôn bán ven biển, chài lưới, thu lượm hải sản và tổ yến trong nhóm quần đảo gọi là Paracels (Hoàng Sa)”.
Từ những tư liệu hiện có, đã xác định được chủ quyền trên các quần đảo ngoài Biển Đông dưới thời Tây Sơn. Thời ấy tình hình trước Trung Hoa rất phức tạp, nhiều người chống đối chính quyền Mãn Thanh đã phải phiêu bạt trên Biển Đông, triều Tây Sơn đã ban nhiều tờ chiếu khuyến dụ lực lượng này quy thuận. Chiếu dụ Tàu Ô viết dưới thời Quang Trung từng vạch rõ: “Họ” (dân Tàu) ra vào nơi bể nước (Biển Đông), tụ tập đồ đảng lấy việc cướp bóc làm kế sinh nhai, có lẽ cũng là việc bất đắc dĩ, phần vì thiếu miếng ăn nên phải làm vậy, phần vì những chính sách bạo ngược xua đẩy. Quang Trung kêu gọi họ sớm đầu hàng. Và chiều theo sở nguyện của từng người thậm chí chấp thuận cho cả “những người có chí lớn, muốn xông pha nơi ngọn sóng cùng hải đảo”.
Thu phục những người Trung Hoa phiêu bạt trên Biển Đông và sử dụng họ tham gia vào công việc nhà nước là một chính sách quan trọng và có tính chiến lược của vương triều Tây Sơn thời bấy giờ.
Sách Thánh Vũ Ký của
Nguỵ Nguyên (1794-1857) cho biết: Có nhiều người Trung Hoa làm nội ứng cho An Nam, được chúa An Nam Quang Toản phong cho làm Tổng binh hoặc Đông Hải vương: “Triều đình đang bận việc dẹp phía Tây, chưa lo xa đến vùng biển đảo, vì thế mà giặc hoạt động rất táo tợn. Năm đầu niên hiệu Gia Khánh (1796) vị tướng ở Khúc Châu là Khôi Luận, Tổng đốc lưỡng Quảng là Cát Khánh đã nhiều lần tâu vua rằng: bọn giặc biển Tàu Ô là Trần Thiên Bảo đã được An Nam cho làm Tổng binh và cấp cho ấn”.
Cũng trong cuốn sách này
Nguỵ Nguyên mô tả “Di thuyền” (thuyền của quân Tây Sơn) cao, to hơn thuyền Trung Hoa, trên đặt nhiều súng, hoành hành lâu năm trên mặt biển và nếu quân nhà Thanh gặp thì cũng khó có thể địch được. Đây là một bằng chứng khẳng định lực lượng hải quân Tây Sơn trong thực tế đã kiểm soát được các tuyến giao thông trên biển và là chủ nhân của các vùng đảo, quần đảo giữa Biển Đông.
Sau khi triều Tây Sơn sụp đổ, nhà Nguyễn vẫn tiếp tục chính sách tiến ra Biển Đông, khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên khu vực các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Các triều: Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị… đã thực thi chủ quyền của mình bằng nhiều hình thức như vãn thám, kiểm tra, kiểm soát, khai thác các vật và hải sản, tổ chức thu thuế và cứu hộ tàu bị nạn, khảo sát, đo vẽ bản đồ, dựng miếu thờ, lập bia chủ quyền, dựng bài gỗ lưu dấu để ghi nhớ, trồng cây để cho người qua lại dễ nhận biết. Những đóng góp quan trọng của triều Nguyễn thế kỷ 19 vào lịch sử chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông là sự tiếp nối chính sách của vương triều Tây Sơn ngày ấy.

source
Người viết: Hoang Van
26/04/2009
Anh Duong Online

Sunday April 26, 2009 - 09:52am (EDT) Permanent Link 0 Comments
KHG Dương Nguyệt Ánh được giải thưởng thành công vẻ vang

KHG Dương Nguyệt Ánh được giải thưởng thành công vẻ vangTuyết Mai &Trịnh Quốc Thiên , Apr 23, 2009
Dương Nguyệt Ánh (ảnh trái), Dương Nguyệt Ánh
Phu quân của Khoa học gia Dương Nguyệt Ánh (ảnh trái), Dương Nguyệt Ánh và ký giả Tuyết Mai (bên phải).
Cali Today News - Vào lúc 6:30 chiều ngày 18 Tháng Tư, 2009 tại Đại Học Maryland (College Park) có tổ chức một buổi trao giải thưởng để vinh danh những cựu sinh viên xuất sắc đã thành công vẻ vang trong xã hội Hoa Kỳ. Trong số 21 người được giải thưởng có KHG Dương Nguyệt Ánh.Đây là lần thứ mười Đại Học Maryland (College Park) đã tổ chức trao những giải thưởng vinh danh như vậy. Đại học này có nhiều phân khoa khác nhau và KHG Dương Nguyệt Ánh được trao giải thưởng dành cho những cựu sinh viên thuộc Phân Khoa Kỹ Sư. Ngoài ra cũng có nhiều giải thưởng cho những phân khoa khác như Thương Mại, Y Tế, Nghệ Thuật, vv…Được biết, được tuyển chọn là cựu sinh viên xuất sắc rất là khó khăn vì đại học có rất nhiều sinh viên. Trước hết phải có người đề nghị rồi một hội đồng cứu xét, quyết định. Phần lớn, yếu tố quyết định là dựa vào sự thành công của cựu sinh viên trong xã hội, dựa vào địa vị họ đang có và những đóng góp của họ đối với xã hội hiện tại, cũng như đối với Viện đại học Maryland. Một số giải thưởng cũng trao cho những cựu sinh viên đã quay về giúp trường gây quỹ hay xây building mới cho trường hay giúp ngân sách để trợ cấp học bổng cho sinh viên. Trong số các cựu sinh viên đã được trao giải những năm trước có Dân biểu Steny Hoyer hiện đang là Lãnh Tụ Khối Đa Số Hạ Viện (House Majority Leader), và bà Connie Chung, từng phụ trách chương trình Tin Tức buổi tối của CBS cùng với Dan Rather và chương trình 20/20 của ABC cùng với Charles Gibson. Trong buổi trao giải thưởng này KHG Dương Nguyệt Ánh mặc áo dài VN, chị cho biết chị cố ý cho mọi người biết chị là người Việt Nam, đó cũng là một cái cách khoe nguồn gốc của mình một cách kín đáo. Theo chị người Việt Nam là một thiểu số ở HK, nhìn vào sự thành công của ngừơi Việt Nam, của các chuyên gia , khoa học gia như bác sĩ, kỹ sư… cộng đồng VN đã đóng góp rất nhiều cho quốc gia HK. KHG Dương Nguyệt Ánh đề nghị với tất cả quý vị phụ nữ khi được giải thưởng hay vinh dự nào đó thì nên nghĩ đến chuyện mặc áo dài, đó là cách quảng cáo hữu hiệu nhất đối với ngừơi bản xứ về khả năng đóng góp của người Việt, nhất là người Việt tỵ nạn đối với quốc gia mới của chúng ta – Hoa Kỳ. Nói về cảm nghĩ, KHG Dương Nguyệt Ánh cho biết, khi nhận được giải thưởng này, chị liên nghĩ đến ngày đầu tiên chị mới bước chân vào Đại Học Maryland năm 1978. Lúc đó chị chỉ là một cô sinh viên rất là ngờ nghệch, bỡ ngỡ, sợ hãi vì chưa quen với xã hội HK, huống chi bước chân vào một trường đại học lớn như Đại Học Maryland. Nhưng chỉ trong vòng bốn năm, nhờ sự tôi luyện của thầy, cô và các bạn, lúc đó chị sinh hoạt rất nhiều với các bạn sinh viên, nhất là Hội Sinh Viên VN ở Đại Học Maryland, chị đã có được lòng tự tin. Khi ra trường Chị không còn là một sinh viên nhúc nhác, lo sợ nữa mà là một kỹ sư hóa học với đầy lòng tự tin. Chị bước chân vào đời với lòng tự tin có đầy đủ khả năng và có thể tranh đua với nhiều người khác. Chị nhớ lại cảm nghĩ khi rời trường, quay nhìn mấy giảng đường, nhớ đến thầy bạn cũ… rồi hôm nay trở lại đây, chị nhớ ơn những người đã giúp chị trong những đoạn đường đã qua, nhất là những thầy và bạn đã giúp chị trong chặn đường đầu tiên. KHG Dương Nguyệt Ánh có nhận xét , các bạn trẻ Mỹ gốc Việt hiện nay có lợi điểm là tiếng Anh giỏi hơn những người thế hệ đi trước, vì vậy họ có thể chọn theo học nhiều ngành khác nhau. Thế hệ trước tiếng Anh yếu nên không đủ tự tin để học ngành mình thích. Các bạn trẻ bây giờ có thể học bất cứ ngành nào mà họ thích, không nhất thiết phải học khoa học hay kỹ thuật. Nói chung thì kiến thức học hỏi được ở trường chỉ là một nửa hành trang thành công ở đời thôi, còn rất nhiều yếu tố khác đưa tới sự thành công mà mình cần phải có như sự chuyên cần. Theo KHG Dương Nguyệt Ánh , công thức riêng để chị thành công, chỉ có mười phần trăm là óc, còn lại là trái tim, nghĩa là phải có nhiệt tình muốn làm gì, muốn theo đuổi một hoài bảo nào đó, chẳng hạn như có mơ ước phục vụ cho quốc gia dân tộc. Còn lại đến sáu mươi phần trăm là mồ hôi, nghĩa là sự chuyên cần, vì nếu không có chăm chỉ thì dù có thông minh đến mấy cũng không thể đi đến đích được. Điều KHG Dương Nguyệt Ánh muốn nói với thế hệ trẻ là chúng ta đang sống trong một quốc gia đầy đủ tự do và cơ hội, chúng ta cần lợi dụng tất cả điều kiện của quốc gia chúng ta đang sinh sống mà cố gắng để tiến thân. Dĩ nhiên việc đầu tiên là chúng ta phải lo trả hiếu cho cha mẹ, giúp đỡ gia đình đồng thời tiến thân để sau này giúp gia đình riêng của mình. Nhưng chị muốn nhắc các bạn trẻ vì chúng ta là ngừơi Mỹ gốc Việt thì đừng bao giờ quên cái gốc VN của mình. (....)
Tưởng cũng nên nhắc lại KHG Dương Nguyệt Ánh đã được mệnh danh là “Bomb Lady”, rất nổi tiếng về việc chế tạo bom để chống quân khủng bố ở A Phú Hản. Lúc đó KHG Dương Nguyệt Ánh làm Tổng Giám Đốc Khoa Học Kỹ Thuật của một trong những Trung Tâm Chế Tạo Vũ Khí của Hải Quân HK. Trong khoản thời gian 2005-2008, KHG Dương Nguyệt Ánh làm Cố Vấn Kỹ Thuật cho Tư Lệnh Phó Hải Quân ở Ngũ Giác Đài, chị phụ trách việc thiết kế phòng trắc nghiệm về sinh hóa học như dấu tay hay những vật dụng khác để có thể xác định chắc chắn lý lịch của một người. Những phòng trắc nghiệm đó rất thành công, hiện giờ có bốn phòng trắc nghiệm được thiết kế tại những nơi quan trọng ở Iraq. Sau đó Bộ Quốc Phòng được yêu cầu đem kỹ thuật đó qua giúp cho quân đội đồng minh và quân đội ở A phú Hản. Hiện giờ thì KHG Dương Nguyệt Ánh làm Tổng Giám Đốc Khoa Học Kỹ Thuật cho Bộ Nội An về phòng vệ biên giới nBorders & Maritime Security). Việc của KHG Dương Nguyệt Ánh là chỉ huy một nhóm khoa học gia và phụ trách việc tìm những khoa học kỹ thuật mới để giúp phòng vệ biên giới HK một cách hữu hiệu hơn. Khi nói đến biên giới là nói đến tất cả đất liên, không phận cũng như hải phận. Bộ Nội An có trách nhiệm lớn là giữ gìn an ninh và phòng vệ quốc gia. Cơ quan KHG Dương phụ trách là một trong sáu cơ quan lo về khoa học, kỹ thuật ngăn chặn không cho những người hay hàng nguy hiểm vào HK, chẳng hạn như ma túy hay vũ khí giết người hằng loạt, “dirty bomb” hay bất cứ những vũ khí sinh học, hóa học vv…công việc của Bộ Nội An cũng ngăn chặn những di dân bất hợp pháp, khũng bố hay những người xấu, có mưu đồ đem những vũ khí hay bất cứ thứ cấm vào nước Mỹ. Theo KHG Dương Nguyệt Ánh, việc làm hiện của chị cũng rất quan trọng, một trong những sứ mạng của chúng ta là làm thế nào để phòng vệ biên giới thì mới có thể giữ gìn hữu hiệu an ninh quốc gia, vì vậy chị rất thích việc làm hiện tại.
*********************************************************************************
source
Calitoday
Pix-source
Tivi Tuan San

Friday April 24, 2009 - 03:18am (EDT) Permanent Link 0 Comments

No comments:

Post a Comment