Sunday 28 February 2010

Đại Việt bên Đại Tống và Cao Ly


February 26, 2010


NGUYỄN XUÂN NGHĨA-Việt Tribune

Lịch sử ngàn năm trong địa dư Đông Á

Nhớ về ngàn năm trước, khi từ Hoa Lư Lý Thái Tổ lập đô tại Thăng Long vào năm 1010, rồi nước Đại Việt ra đời, chúng ta cùng nhìn ra ngoài xem các nước khác xoay trở ra sao. Kỳ trước, cột báo này đã điểm lại tình hình Âu Châu thật ra vẫn còn phân tán, loạn lạc và lạc hậu. Kỳ này, hãy cùng nhìn về nước láng giềng phương Bắc, về nhà Đại Tống thống khổ.

Thời Tùy-Đường là cơ hội cho dân ta quật khởi và khi nhà Đường tiêu vong vào năm 907 thì gần sáu chục năm của thời “Ngũ đại – Thập quốc” là lúc dân ta giành lại quyền tự chủ. Thế rồi, trong khi nước ta bị 70 năm loạn lạc, từ Ngô Vương Quyền đến Lý Thái Tổ 939-1009, thì nước Tầu lại tái thống nhất. Triệu Khuông Dẫn mở ra nhà Đại Tống từ đấy.

Các thiếu nữ Việt Nam trong một lễ đón tiếp ngoại giao tại Hà Nội. Hoàng Đình Nam/Getty Images

Nhà Tống này tồn tại được hơn ba trăm năm – từ 960 đến 1279. Nhưng chỉ có trăm năm đầu là khoẻ. Trong một chuỗi dài các triều đại Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh và Thanh, thì nhà Tống là đế quốc yếu nhất.

Nhìn lại chuyện ngàn năm trước, chúng ta thấy ra hai cuộc chạy đua để đổi loạn ra trị. Bên Trung Hoa loạn trước nên tới đích sớm hơn với sự ra đời của nhà Tống. Vì vậy, họ cũng manh nha chinh phục lại vùng đất Giao Châu vừa bị vuột mất. May là sau Ngô Quyền, nước ta có Lê Hoàn – Đại Hành Hoàng đế – và chiến công phá Tống bình Chiêm trong các năm 981- 982. Cái may thứ hai của chúng ta là nhà Đại Tống này thật ra cũng còn yếu vào khi nước ta chưa đủ mạnh trong giai đoạn tự chủ ban đầu! Với nhà Lý thì Đại Việt đã kịp đủ mạnh để đương đầu quyết liệt hơn, trong khi nhà Tống tuột dốc và bị Mông Cổ diệt vong

Xuất phát từ thời tao loạn, Thái tổ Triệu Khuông Dẫn của nhà Đại Tống tập trung quyền lực vào trung ương ở kinh đô Khai Phong tại phía Bắc và tước đoạt binh quyền của địa phương. Quyền lực trung ương rất mạnh thì đem lại sự ổn định – và phát triển văn hoá cùng kinh tế. Nhưng lại làm suy yếu ảnh hưởng vương triều tại các vùng phiên trấn hay biên ngoại. Đó là mâu thuẫn lớn của triều đại này.

Nói về thành tựu thì Trung Quốc đời Tống đã mở đầu thiên hạ với cuộc “cách mạng kỹ nghệ” – khi loài người chưa nghĩ ra chữ kỹ nghệ hay công nghiệp. Họ phát minh ra thuốc súng và cả súng hỏa mai, họ mở ra kỹ thuật ấn loát. Họ cải tiến kỹ nghệ luyện kim để sản xuất thép ngày một nhiều và tinh xảo hơn. Họ mở mang kỹ thuật đóng tầu và hàng hải và cho bành trướng thương mại. Nhờ vậy, khi mà Âu Châu mới chỉ có thị trấn thì đời Tống đã có các thành phố lớn.

Hàng Châu, sau này là kinh đô Nam Tống, có tới nửa triệu dân trong khi Paris hay các kinh đô khác của Âu Châu chỉ có chừng chục vạn. Constantinople tỏa sáng kia mà cũng mới chỉ có ba chục vạn dân thôi. Về văn hoá, nhà Tống cũng có nhiều tiến bộ vượt bậc so với nhà Đường, nên thơ phú, hội họa đã trở thành sinh hoạt phổ biến còn rộng rãi hơn trong dân gian.

Nhưng then chốt nhất, tầng lớp ưu tú của họ đào sâu tư duy về Khổng học và nâng tư tưởng Khổng giáo lên trình độ... chuyên chế. Phật giáo bị đẩy lui, Khổng giáo trở thành tư tưởng chính thống mà chủ quan hơn. Lý học của Tống nho là hệ thống tư tưởng cực đoan nhất vì chủ yếu tập trung vào việc bảo vệ vương quyền. Trước tiên là bảo vệ Hoàng đế và Hoàng gia.

Việc bảo vệ vương quyền cũng khiến nhà Tống chỉ có sức mạnh ở trung ương và thường xuyên bị ngoại tộc tấn công, trong đó có cả nhà Đại Việt dưới thời Thái úy Lý Thường Kiệt năm 1175-1177. Chiến công của nhà Lý khiến Tể tướng Vương An Thạch bị mất chức và việc “biến pháp” để cải cách của ông phải chấm dứt khiến nhà Tống còn lụn bại hơn.

Nhà Đại Tống bị uy hiếp nặng nhất là từ phía Tây và phương Bắc.

Các vương quốc vây quanh như Tây Hạ, Kim, Liêu thay nhau tấn công Trung Nguyên. Nhà Kim mượn sức nhà Tống đánh bại nhà Liêu, rồi vào năm 1127 thôn tính luôn một phần của nước Tống, kể cả kinh đô Khai Phong. Triều Tống chạy xuống miền Nam, cố cầm cự, rồi cầu hòa, rồi nhường lãnh thổ phía Bắc để thiên đô xuống Hàng Châu. Tại đó, từ năm 1142 nhà Nam Tống chỉ còn thoi thóp. Sau khi Mông Cổ diệt sạch Tây Hạ, Kim, Liêu thì cũng diệt luôn Đại Tống để lập ra nhà Nguyên.

Ở biên vực phía Nam, nhà Tống cũng bị các nước gọi là phiên trấn hay chư hầu đánh cho tơi tả. Một tộc trưởng Cao Bằng là Nùng Trí Cao mà vua Lý của ta đã tha chết về sau còn lập ra nước Đại Lịch rồi Đại Nam! Họ Nùng này cầm quân đánh vào Nam Tống để đòi chức Tiết độ sứ khiến triều đình rung chuyển, Đại tướng Tống là Địch Thanh phải giật mình!

Nếu nghĩ lại, trong khi nhà Lý của nước ta củng cố được vương quyền và pháp lệnh để lãnh đạo một nước Đại Việt thống nhất hơn thì nhà Đại Tống lại thường xuyên nghiêng đổ. Vì vậy, nếu sử có viết là nhà Tống sai người qua nghiên cứu và học hỏi cách tổ chức binh chế của nhà Lý thì ta không ngạc nhiên… Nhớ đến “ngàn năm Thăng Long” ta không nên quên một trăm năm đầu, rất oanh liệt, của nhà Lý, của nước Đại Việt.

Nhưng ta cũng nên nhìn xa hơn một chút… nhìn tới một cường quốc Đông Bắc Á có vị trí tương tự với Đại Việt. Đó là Vương triều Cao Ly.

Tên Cao Ly thật ra là tên dòng họ – Goryeo hay Koryeo – nay mới là tên nước Cao Ly hay Korea.

Khi Giao Châu chuyển mình để bước ra khỏi thời Bắc thuộc thì cái bán đảo mà ngày nay ta gọi là Triều Tiên còn bị nội loạn, kết tinh thành thế “Tam quốc” giữa ba nhà Cao Câu Ly, Bách Tế và Tân La kể từ năm 901. Và còn bị chinh chiến với cái đuôi nối dài. Năm 918, một viên tướng Vương Kiến từ nước “Hậu Cao Câu Ly” lập ra Vương quốc Cao Ly và phải mất mấy chục năm đánh dẹp mới bắt đầu thống nhất kể từ 936 – gần như cùng thời với Ngô Vương Quyền.

Nhà Cao Ly này tồn tại khá lâu, lâu hơn nhà Lý có tám đời vua. Nhưng trải qua 33 đời vua, nhà Cao Ly thường xuyên bị loạn và không chống nổi ngoại xâm nên phải thần phục nhà Nguyên của Mông Cổ, là trường hợp không xảy ra cho Đại Việt vào đời Trần. Và cũng là bài học cho nước ta vào đời nay…

Trước hết, trong khi Đại Việt phải xoay trở với nội loạn từ các thời Đinh, Lê qua nhà Lý thì nhà Cao Ly bị tộc Khiết Đan (Khất Đơn hay Khitan) xâm chiếm từ năm 939 đến 1019. Sau đó là nhiều đợt tấn công của tộc Nữ Chân – tiền thân của nhà Kim, nhà Thanh. Khi bị Khiết Đan xâm chiếm, nhà Cao Ly phải nhượng bộ đến độ đoạn giao với Đại Tống. Mười năm sau, năm 1009, khi Lý Công Uẩn lên ngôi ở nước ta thì tại Triều Tiên, tướng Khai Triệu giết vua Cao Ly Mục Tông và tạo cơ hội cho Khiết Đan tràn xuống. Khang Triệu bại trận và bị tử hình. Vua Cao Ly là Hiền Tông phải bỏ kinh đô Khai Thành mà chạy. Năm 1018, Khiết Đan lại tấn công lần nữa, lần này bị thảm bại. Đành dừng.

Nhưng, tộc Nữ Chân tại miền Bắc lại lớn mạnh và hết thần phục nhà Cao Ly mà bắt đầu nhòm ngó.

Năm 1107, chiến trận bùng nổ dưới sức ép Nữ Chân, và tướng Doãn Quán của nhà Cao Ly ngăn được. Nhưng như nhiều lần trong lịch sử Trung Quốc hay Cao Ly, hùng tướng tại trận tiền lại bị triều đình hủ bại phía sau nghi ngờ, bãi chức và bị buộc trả lại thành trì cho giặc! Không khác gi chuyện đã xảy ra cho nhà Tống rồi nhà Minh bên Tầu. Triều đình Đại Việt thì chưa đến nỗi tệ như vậy. Trong cả lịch sử nước Nam cũng thế!

Nội tình nhà Cao Ly thật ra thường xuyên có loạn, giữa các võ tướng với văn thần, giữa các vương hậu hay vương tướng họ Lý với hoàng gia Cao Ly, cho nên nhiều lúc triều đình vỡ đôi. Sau vụ nổi loạn của tướng Lý Tư Khiêm năm 1126, triều Cao Ly suy sụp hẳn. Việc võ quan phế lập ngôi vua xảy ra nhiều lần cho tới năm 1179 mới tạm yên nhờ viên tướng Khương Đại Thăng.

Nhưng họ Khương này qua đời thì loạn vẫn hoàn loạn.

Năm 1197, người cháu bốn đời của một danh tướng Đại Việt di cư qua đó từ đời Lý Anh Tông (Thủy quân Đô đốc Lý Dương Côn) là Tể tướng Lý Nghĩa Mẫn bị các võ tướng khác giết hại để khống chế triều đình Cao Ly trong hơn 60 năm. Ông Lý Nghĩa Mẫn này làm Tể tướng nhà Cao Ly trong 14 năm chứ không phải người thường. Cầm đầu nhóm võ tướng đã giết ông là Thôi Trung Hiến. Họ Thôi thực tế nắm quyền, bốc vua này lên, hạ vua kia xuống, các ông vua nhà Cao Ly chỉ ngồi làm vì.

Năm 1231, Đại Hãn Oa Khoát Đài của Mông Cổ từ trong lục địa bước qua và triều đình Cao Ly lại dời đô mà chạy. Nhà Cao Ly cầm cự được gần ba chục năm thì đành đầu hàng vào năm 1159. Năm đó, nước Đại Việt của nhà Trần thời Trần Thái Tông vừa đánh bại quân Mông Cổ trong lần xâm lăng thứ nhất vào đầu năm 1158. Ý chí của Thái úy Trần Thủ Độ có góp phần cho chiến thắng đó.

Phải nói thêm rằng trong ba chục năm chiến đấu chống ngoại xâm thì dân Cao Ly đã kháng cự rất anh hùng. Nhưng triều đình ở trên thì rất yếu. Nếu so sánh thì ta hiểu ra công lao của Trần Thủ Độ khi xoá bỏ nhà Lý mục nát để kịp dựng lên triều Trần.

Triều Cao Ly ký hòa ước để xin hàng Mông Cổ, chỉ giữ lại được chủ quyền về văn hoá và thật sự là phiên thuộc của Nguyên Mông. Thời ấy, Nguyên Thế tổ Hốt Tất Liệt muốn dùng bán đảo Triều Tiên làm bàn đạp chinh phục Nhật Bản. Nếu trong hai đợt tấn công Nhật Bản năm 1274 và 1281 mà nhà Nguyên thành công thì có khi Nhật đã thành phiên thuộc. Còn lãnh thổ của nhà Cao Ly trở thành châu quận của nhà Nguyên!

Trong giai đoạn ngoại thuộc, nhà Cao Ly còn cố gắng cải cách một lần nữa, dưới thời Cung Mẫn Vương, nhưng chính sự mục nát trong triều đã gây ra thất bại. Trong khi nhà Nguyên bị suy yếu trước sự nổi dậy của Chu Nguyên Chương rồi bị đuổi khỏi Trung Nguyên năm 1368 thì Cung Mẫn Vương lại bị một nam thiếp – nói cho dễ hiểu là “kép đực” – ám sát năm 1374. Việc quật khởi không thành, nhà Cao Ly bị một viên tướng là Lý Thành Quế phế bỏ để xưng vua là Thái tổ Triều Tiên vào năm 1392. Nhà Cao Ly chấm dứt từ đó và dù có 33 đời vua thì thực quyền cũng chẳng bao nhiêu.

Dù sao, trong mấy trăm năm, nhà Cao Ly có để lại nhiều thành tựu về văn hoá, nghệ thuật và rất nhiều kinh sách Phật giáo, tương tự như nhà Lý, nhà Trần của nước ta… Dân Đại Hàn ngày nay thì nhớ, chúng ta thì quên vì ký ức bị xóa. Cùng lắm thì lại tìm vài vòng hoa Cao Ly tròng lên cổ mình, ra chiều hãnh diện vì nhiều vương công đời Lý chạy qua đó đã trở thành anh hùng Cao Ly!

Và ngày nay, trong cuộc đua với Đại Hàn, (...) coi như đã tụt hậu, rồi cứ trôi dần vào “(...)”. Là (...) sau (...) năm hiện hữu… Đấy mới là cách nhớ xứng đáng và thực tế về “(...)”! [NXN]

source

Viet Tribune Online

Wednesday 24 February 2010

Xoa dịu lạm phát bằng vàng 1966


April 26, 2009


Lý Minh Hào

Ông Âu Trường Thanh, kinh tế gia kỳ cựu của miền Nam Việt Nam trước năm 1975 đã qua đời sau cơn đột quỵ và được thân nhân đưa vào cấp cứu trong một bệnh viện tại Paris, Pháp. Ông mất ngày 11 tháng 4 năm 2009, hưởng thọ 83 tuổi.
Kinh tế gia Âu Trường Thanh tốt nghiệp bằng Tiến Sĩ Quốc Gia ngành kinh tế học từ Đại Học Sorbonne danh tiếng tại Paris, Pháp vào thập niên 1950. Sau khi về nước, ông đã tham chính trong chính phủ Tổng Thống Ngô Đình Diệm và giữ chức vụ Bộ Trưởng Kinh Tế, thi hành việc cải cách guồng máy kinh tế thoát khỏi sự độc quyền kinh tế, thương mại từ giới Hoa thương Sài Gòn, Chợ Lớn. Đến thời “Nội Các Chiến Tranh” (Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương dưới quyền Tướng Nguyễn Cao Kỳ) vào năm 1966, ông lại được giao chức vụ Tổng Ủy Viên Kinh Tế-Tài Chánh (tương đương Tổng Trưởng) và nổi tiếng qua việc thi hành biện pháp “chống lạm phát bằng vàng” (mà chi tiết đã được kể lại trong cuộc mạn đàm với ông Lý Minh Hào thực hiện vào Tháng Hai, 2009 Xuân Kỷ Sửu dưới đây). Tại Pháp, trước khi về nghỉ hưu, ông đã đảm trách chức vụ Giám Đốc cho Công Ty Sanyo (Nhật), tại Paris trong nhiều năm.

Kinh tế Gia Âu Trường Thanh.Hình Gia Đình

Cách nay ít năm, ông Âu Trường Thanh đã sang Hoa Kỳ, lại San Francisco một thời gian ngắn, hội ngộ lại với Kỹ sư Khương Hữu Điểu từng làm việc chung với ông qua chức vụ Phụ Tá Tổng Ủy Viên Kinh Tế-Tài Chánh trước đây tại Việt Nam.
Vài chi tiết hữu ích cũng được biết thêm là cụ thân sinh của ông Âu Trường Thanh chính là người soạn thảo và phát hành “Lịch Tam Tông Miếu” đầu tiên tại Việt Nam. Ông Âu Trường Thanh đã qua đời giữa lúc nhiều thứ việc biên soạn, trước tác chưa hoàn tất. Tuy nhiên, ông để lại một số di cảo quý báu và bổn báo chúng tôi sẽ đăng tải khi có dịp thuận lợi, thuận thời.
Lý Minh Hào (LMH): Kính chào giáo sư, qua kỹ sư Khương Hữu Điểu, cá nhân chúng tôi hân hạnh có cuộc mạn đàm với giáo sư về một sự kiện mà lâu nay tôi muốn biết tường tận hơn, đó là việc “lấy vàng để xoa dịu kinh tế” vào giữa năm 1966 mà giáo sư là người khởi xướng và trực tiếp chỉ đạo.
Âu Trường Thanh (ATT): Tôi cũng hân hạnh ở vai trò người có đủ thẩm quyền để trả lời và giải thích những gì thuộc phạm vi hay liên quan đến sự kiện kinh tế năm 1966 đó.

LMH: Bắt đầu tháng Ba, năm 1965, khi người Mỹ đủ thành phần có mặt đông đảo tại Việt Nam thì họ cũng mang tới xã hội những cơn lốc, cơn bão “giá cả” như vật giá tăng vọt, đồng bạc Việt Nam mất giá liên tục gây lạm phát phi mã. Văn minh Coca-Cola, của cải vật chất phủ phê, lối tiêu xài hoang phí của người Mỹ gần như đè bẹp nền kinh tế nhược tiểu bản xứ đang trong thời kỳ chiến tranh bộc phát và leo thang từng ngày. Trước tình trạng bi quan kinh tế, xáo trộn xã hội thực sự đe dọa sự tồn vong của chế độ đương quyền tại Saigon, buộc chính phủ Mỹ tại Hoa Thịnh Đốn phải ra tay cứu nguy kinh tế Việt Nam, xin giáo sư cho biết sự khởi thủy và tiến trình của kế hoạch cứu nguy kinh tế đó.
ATT: Năm 1966, phái đoàn Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF) đã đến Saigon nhiều tháng điều nghiên tình hình kinh tế, tài chánh để có đủ những dữ kiện đưa ra biện pháp thích nghi tránh được sự suy sụp kinh tế của Việt Nam giữa lúc chiến tranh đang leo thang. Gặp tôi, ông trưởng phái đoàn nói ngay là lấy làm tiếc mà thấy trong tình trạng nghiêm trọng như thế, giữa tôi với ông Nguyễn Hữu Hanh (Thống Đốc Ngân Hàng Quốc Gia lúc bấy giờ) lại không thuận nhau lắm. Tôi bèn trả lời rằng, thuận hay không thuận là chuyện cá nhân, còn về công việc làm thì ai nấy cũng cố gắng làm tròn nhiệm vụ của mỗi người được phân công minh bạch từ ban đầu, Bộ Kinh Tế thì có phận sự điều khiển guồng máy kinh tế, còn Ngân Hàng Quốc Gia thì điều hành việc tiền bạc.

LMH: Thế rồi giáo sư sau khi trao đổi ý kiến với họ về tình hình và giải pháp cứu nguy kinh tế VIệt Nam, giữa lúc vật giá, thị trường xáo trộn, đồng bạc Việt Nam mất giá nhanh, nguy cơ đi tới xã hội và chính trị hỗn loạn, giáo sư có đặt vấn đề “biện pháp cứu nguy kinh tế cấp thiết” là làm gì và khi nào hay không?
ATT: Có chứ. IMF liền đề nghị ngay phải phá giá đồng bạc Việt Nam. Tôi biết sẵn trong đầu là sẽ có đề nghị như thế. Nhưng lòng tôi vẫn ưu tư lo ngại. Theo sách vở tôi học, thì mọi cuộc phá giá tiền tệ đều cuốn hút theo những xáo trộn trong xã hội, và sau đó ít lâu, với nạn lạm phát thường theo đà xấu thêm thì lại phải phá giá đồng tiền một lần thứ hai, rồi thứ ba… Qua kinh nghiệm của nhiều xứ, đâu đâu cũng giống như vậy. Hậu quả của những lần liên tiếp phá giá đơn vị tiền tệ là xứ sở lụn bại hoặc thể chế sụp đổ. Tuy nhiên tôi sực nhớ ra một điều mà cuốn sách của Tiến Sĩ Schacht có nói về thảm trạng kinh tế của một vài nước Âu Châu sau thế chiến thứ hai. Lúc mà đồng Đức Kim mất giá thê thảm, người còn sở hữu loại tiền này vẫn phải mang hàng triệu Đức kim khi đi chợ. Điều đó nói lên trong vấn đề tiền tệ, việc quan trọng nhứt là lòng tin tưởng của người dân đối với giá trị đồng tiền họ còn đang có trong tay. Cho nên, ngay liền đó, một ý nảy ra trong đầu tôi…

LMH: Mạn phép cắt giáo sư đường đột ngay chỗ mạch câu chuyện đang hấp dẫn này. Giáo sư đã kiếm được “độc chiêu” nào để hoá giải tà ma, ám khí giống như trong truyện kiếm hiệp, phong thần để áp dụng vô cái chuyện cứu nguy kinh tế bằng giải pháp “phá giá tiền tệ” vốn vẫn dễ gây nguy hiểm như người ta khi xài cây dao quá bén?
ATT: Không có gì. Tôi biết chẳng qua vì anh muốn bám sát theo tôi thôi, đi song hành cho vui thêm câu chuyện mạn đàm kinh tế mà. Trở lại câu chuyện ngay đây. Trong buổi họp sau với IMF, tôi đề nghị cần phải có vàng để bảo đảm đồng bạc Việt Nam thì IMF và Ông Nguyễn Hữu Hanh giựt mình vì không biết tìm đâu cho ra vàng. Bởi vì chánh sách Huê Kỳ trong vấn đề viện trợ không bao giờ đề cập đến vàng. Vàng đúng ra là một chuyện không bao giờ nên đặt ra, vì khó hy vọng được giới chức Huê Kỳ chịu bỏ thì giờ ra thảo luận hoặc cứu xét. Nhưng tôi kiên quyết khẳng định với IMF và Ông Nguyễn Hữu Hanh rằng phải tìm ra cho tôi vàng, vì nếu không có vàng thì tôi không thể thực hiện việc phá giá đồng bạc VN, và trong trường hợp đó, tốt hơn là kiếm người khác để thay thế tôi.

LMH: Nhưng rồi với những điều kiện gì, họ đã chấp thuận “yêu sách”, xin phép có thể gọi là “xảo kế” của giáo sư dùng vàng để đối phó với lạm phát?. Xin nói thêm, chữ “xảo” không hề có nghĩa xấu như trong các chữ xảo trá, xảo quyệt, gian xảo mà mọi người hiểu nghĩa. “Xảo kế” ở đây gần đồng nghĩa với diệu kế, tinh kế. Như trong Hán tự, chữ “xảo biện” là biện bác giỏi, “xảo tứ” là ý tứ khôn, “xảo phụ” là đàn bà khéo. Tục ngữ Trung Hoa thường nói câu “xảo phụ vi sa tác phạn” (đàn bà khéo, nấu được cát thành cơm), hoặc “xảo phụ nan vi vô mễ chi xuy” (đàn bà dù khéo cũng khó nấu thành cơm nếu không có gạo) đều ngụ ý khen ngợi người đàn bà giỏi.
ATT: Cám ơn anh đã quá khen. Thú thiệt, tôi không hiểu IMF và ông Nguyễn Hữu Hanh vận động với chánh phủ Huê Kỳ như thế nào mà tới phiên họp kế tôi được biết là Huê Kỳ ưng thuận cho Việt Nam một khối lượng vàng tương đương với 50 triệu Mỹ Kim. Coi như đó là việc hy hữu và xảy ra lần thứ nhứt trong lịch sử viện trợ Huê Kỳ. Vậy là con đường để thi hành kế hoạch phá giá đồng bạc VN đã được khai thông. Tôi nhớ ông Nguyễn Hữu Hanh cho tôi coi số liệu thống kê của Ngân Hàng Quốc Gia ghi rõ tổng khối lượng tiền bạc đang lưu hành trong xứ, và bèn thương lượng với BRI (Banque des Règlements Internationaux) của Thụy Sĩ tại thành phố Bale để mua vàng và đem về dự trữ trong kho ngân khố của Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam.

LMH: Đường đi coi như đã được khai thông để tiến hành, xin giáo sư nhớ lại trên lộ trình đó có gặp trắc trở, khó khăn gì và có những điểm móc quan trọng đáng nhớ nào không?
ATT: Tôi nhớ sau khi có buổi họp chung giữa IMF, Bộ Kinh Tế và Ngân Hàng Quốc Gia, chúng tôi đồng quyết định phá giá đồng bạc vào ngày 17/6/1966. Ngày 15/6/1966, tôi vào Văn Phòng Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia gặp Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu để trình bày ý của tôi. Tôi trình bày một cách khái lược, cố ý không tường tận cho lắm, và yêu cầu Ông Thiệu triệu tập tất cả các thành viên trong UBLĐQG họp vào tối thứ bảy 16/6/1966 lúc 23giờ 55 phút. Tôi lấy làm lạ ở chỗ là sao ông Thiệu không hỏi tôi một điều gì cả trước khi chấp thuận phiên họp quan trọng này. Tối thứ bảy 16/6/1966, tôi có mặt đúng giờ,và sau khi chào hỏi xã giao xong, đồng hồ chỉ đúng 12 giờ khuya, tôi đứng ra trình bày rõ ràng cho cả UBLĐQG hiểu lý do và mục đích của kế hoạch phá gía tiền tệ, với những điểm lợi và những hại có thể xảy đến. Phần điều trần mất khoảng 15 phút. Liền ngay sau đó, tôi nêu ý kiến hỏi xem ai có câu hỏi gì cần giải thích thêm để tôi giải đáp bổ túc, nhưng tôi cũng rất làm lạ không ai lên tiếng hỏi điều chi hết. Theo tôi nghĩ, do tình hình khẩn trương lúc bấy giờ nên giới tướng lãnh nắm quyền lực quốc gia chấp thuận mau mắn đề nghị cứu nguy kinh tế của tôi bởi không biết làm chi khác hơn.

LMH: Sau quyết định chung, tán đồng thi hành kế hoạch phá giá tiền tệ, chính phủ đã triển khai kế hoạch như thế nào trong hạn kỳ thời gian gần như phải chạy đua với hai chiếc kim đồng hồ từng giờ từng phút?
ATT: Đầu tiên, ngày 17/6/1966, Tướng Nguyễn Cao Kỳ bên Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương ký ban hành ngay hai sắc luật. Sắc luật 001/66 chánh thức ấn định hối suất Đồng Bạc VN là VN$80 đổi một Mỹ Kim kể từ 00giờ; và Sắc luật 002/66 áp dụng đảm phụ và trợ cấp củng cố kinh tế VN$38 cho một Mỹ Kim. Đặc biệt, thời điểm ngày 17/6 đúng vào chủ nhật thành thử ai muốn trao đổi một dịch vụ tiền bạc thì không thể làm được vì tất cả ngân hàng đều đóng cửa. Lại nữa, qua ngày kế, thứ hai 18/6, các công sở được nghỉ với lý do chính thức ăn mừng Ngày Lễ Quân Lực VNCH 19/6. Cùng ngày 18/6, nhiều biện pháp chống lạm phát được ban hành, như áp dụng trợ cấp du học VN$38 cho một Mỹ Kim, tăng lương quân nhân công chức từ 20% đến 30%, lập Quỹ Điều Hành Thị Trường Vàng để bán vàng thoi theo giá chính phủ ấn định.v.v…

LMH: Cũng nghe nói giáo sư có tổ chức cuộc họp báo thu hút đông người tham dự. Một màn “phô diễn vàng thoi” ngoạn mục có tác động tâm lý rất mạnh trong dân chúng đã giúp chính phủ Saigon xoay ngược được tình thế đang suy sụp trở thành khá hơn, mặc dù chỉ trấn áp hiệu ứng tạm thời cơn sốt lạm phát đang làm con bệnh kinh tế VN vật vã.
ATT: Đúng. Cùng ngày 18/6, tôi mở một cuộc họp báo lớn tại Bộ Kinh Tế. Có rất đông ký gỉa và thương gia đến tham dự đến nỗi phòng họp không còn chỗ chứa. Trước khi họp báo, tôi có nhờ Ngân Hàng Quốc Gia cho mượn một thoi vàng nặng 1 kílô đặng tôi đặt trước mặt trên chiếc bàn nơi tôi ngồi. Thoi vàng để trên bàn khêu gợi tánh tò mò của người dự. Thú thật, chính tôi từ trước đến nay, cũng chưa khi nào có dịp thấy và rờ một thoi vàng thiệt nữa. Trước khi khai đề, tôi cho chuyển thoi vàng qua tay các nhà báo, và người nào người nấy đều lấy tay mân mê thoi vàng khi cầm nó trong tay. Luồng điện tâm lý tuồng như đã chạy rần rần trong thần kinh não bộ các ký giả qua những phản ứng trên nét mặt. Bắt đầu cuộc họp báo, tôi nhơn danh chánh phủ công bố hối suất mới của Đồng Bạc VN đối với Mỹ Kim là 80 Đồng Bạc VN “ăn” một Mỹ Kim hiệu lực kể từ 00giờ. Không quên nhấn mạnh kế tiếp rằng để bảo đảm giá trị hối suất mới của Đồng Bạc VN, chánh phủ cho dân chúng mua vàng tự do không hạn chế. Ai mới nghe cũng cho là sự láo bịp của chánh phủ để nhất thời trấn an dư luận, luôn cả những kinh tế gia lão thành cũng ngờ vực. Bởi vì không ai dè rằng chánh phủ đã chuẩn bị dự trữ nhiều tấn vàng để đáp ứng nhu cầu mua vàng của dân chúng. Như anh cũng biết, thông thường, tổng khối lượng tiền bạc lưu hành trong một quốc gia chia ra làm ba phần: một phần để tiêu xài, một phần để buôn bán và một phần để tiết kiệm. Khi nghe tin chánh phủ tung vàng từ quốc khố ra bán với giá rẻ hơn thị trường thì dân có tiền đua nhau rút tiền tiết kiệm ra, hoặc chuyển phần tiền đang định làm áp phe để tích trữ mua vàng vô cho chắc ăn, chờ lên giá hưởng lời. Sức hấp dẫn của “vàng thiệt và giá rẻ” đã khiến nhiều người tạm thời quên đi thói quen đầu cơ, ôm tiền mua hàng hoá cất giấu để chờ thời cơ “mua một bán ba” vẫn làm lâu nay. Trong một thời gian ngắn thôi, chiến dịch “chánh phủ bán vàng” đã đem lại kết quả khả quan. Tôi đơn cử những số liệu chánh thức còn lưu giữ như sau: Giá vàng (tính theo Lượng Vàng) trên thị trường VN vào thời điểm đó: 12,300 Đồng VN (ngày 10/6/1966); 15,500 Đồng VN (ngày 16/6); vọt lên 20,500 Đồng VN (ngày 18/6); rồi sụt còn 12,300 Đồng VN (ngày 28/6). Tạm đứng lại ở mức bớt giao động giá cả. Như anh thấy, chỉ trong vòng chưa đầy 10 ngày, giá vàng tăng gần gấp đôi, nhưng rồi lại tuột giá cũng như vậy hơn mười ngày sau khi phá giá đồng bạc VN và tung vàng bán ra.
LMH: Theo như chúng tôi được biết qua thực tế, “phá giá tiền tệ” là biện pháp đối phó nạn lạm phát cực chẳng đã mới đem ra áp dụng vì hệ quả phức tạp của nó, xấu nhiều hơn tốt, tạo bất ổn nhiều hơn ổn định cho sinh hoạt bình nhựt của xã hội. Thực tế vẫn cho thấy là vật giá, giá sinh hoạt cứ tiếp tục leo thang theo đồng tiền mất giá sau mỗi lần phá giá tiền tệ. Trong trường hợp giáo sư ứng phó lạm phát kinh tế vào giữa năm 1966 tại VN, dùng vàng để làm đòn bẩy thực thi kế hoạch, tình hình diễn biến kinh tế tài chánh, tình trạng vật giá biến chuyển ra sao vào lúc bấy giờ?.
ATT: Tôi nói rõ thêm về trường hợp vàng. Đến cuối tháng 6/1966 thì những tiệm mua bán vàng lớn ngưng không muốn mua vàng của chánh phủ bán ra nữa, vì nhu cầu mua vàng vô của dân chúng giảm mạnh. Giá vàng không tăng mà lại tuột nhanh sau khi phá giá đồng bạc Việt Nam. Còn giới chuyên môn kinh doanh theo lối đầu cơ nhận thức ra rằng “chôn vốn” vào việc dự trữ vàng là thất sách, không có lời mà lại đâm ra lỗ, bèn bán vàng ra để có đủ tiền mặt mua hàng hoá kinh doanh hoặc làm các loại áp phe khác. Còn giá chợ đen Mỹ Kim cũng ở vào tình trạng đứng giá. Vật giá các loại nhu yếu như gạo, trứng, sữa, hàng vải, nhiên liệu có gia tăng nhưng không đáng kể. Tình hình kinh tế từ tháng 6 đến tháng 9 năm 1966, nói chung tạm ổn, đời sống người dân không quá khó khăn. Chỉ có mặt hàng thịt heo khan hiếm, lên giá vì tình trạng bất an tại các vùng quê, miền nông thôn do xung đột, giao tranh quân sự gia tăng, chiến tranh VN leo thang.
Thú thiệt, tôi đã thở phào một cái nhẹ nhõm người , lòng bớt nhiều các thứ ưu tư trĩu nặng bấy lâu nay. Kế hoạch chống lạm phát và phá giá tiền tệ đã đạt thành quả một cách êm ả, vì làm sụt giảm giá trị đồng bạc VN mà không gây ra xáo trộn xã hội, chính trị ảnh hưởng nguy hiểm cho quê hương xứ sở. Nhứt là về mặt tâm lý, việc phá giá đồng bạc không gây ra sự hoảng hốt, dân chúng vẫn tin tưởng giá trị của Đồng Bạc VN bên cạnh vàng được chọn làm tiêu chuẩn bảo chứng. Đúng như kinh tế gia Schacht nói, yếu tố tâm lý của người dân trong một nước có một sự tác động và ảnh hưởng tốt hoặc xấu trên bất cứ kế hoạch phá gía tiền tệ nào.

LMH: Phải nói kế hoạch “xoa dịu kinh tế” của giáo sư được “nhứt lộ hanh thông, nhứt phàm phong thuận” (một đường thẳng tiến, một buồm xuôi gió), như người Trung Hoa thường nói, là nhờ sáng ý và diệu kế “dùng vàng” để ứng phó trước sau nhiều thứ nhắm tới: hút bớt khối lượng lớn tiền bạc đang lưu hành khi dân tung tiền ra mua vàng – đến khi “no vàng” rồi và “kẹt tiền mặt” lại bán vàng ra để lấy tiền tiêu xài, làm ăn – vàng “hút tiền” để làm bớt áp lực lạm phát – Đồng Bạc VN được dân chúng tin tưởng vì có vàng chính phủ bảo chứng. Thành thực cám ơn giáo sư đã dành cho buổi mạn đàm kinh tế lý thú này. Kính chúc giáo sư nhiều sức khỏe và mong được tái tục những cuộc mạn đàm khác.
ATT: Hân hạnh và hy vọng như vậy. Chào anh.

*******************

source

Viet Tribune Online

Sunday 21 February 2010

Ngàn trước tới ngàn sau


February 15, 2010


NGUYỄN XUÂN NGHĨA/Việt Tribune

Nhớ lại những gì khi kỷ niệm ngàn năm Thăng Long?

Con người ta có trí nhớ rất kém nên thường chú ý đến biến cố lịch sử gần với thời đại cùa mình mà coi thường chuyện sinh tử của thời xa xưa.

Khi bị Thục Phán tấn công và vua Hùng vương thứ 18 phải nhảy xuống giếng tự trầm, nước ta có thể đã rơi vào vòng Bắc thuộc. Năm Thục Phán xưng Vương trên lãnh thổ Văn Lang đó là 257 trước Tây lịch. Thời Bắc thuộc khởi sự từ đó chăng? Rất đúng nhưng còn mơ hồ, vì ta biết quá ít về Thục An Dương Vương.

Thế rồi, khi viên tướng Tần là Triệu Đà nhân nước Tầu có loạn mà chiếm lấy vùng Lĩnh Nam của Trung Hoa rồi thôn tính nhà Thục, từ năm 214 trước Tây lịch, thì thời Bắc thuộc mới thực sự bắt đầu… Hợp lý hơn nhiều. Nhưng chắc chắn nhất là khi cháu chắt Triệu Đà dâng nước ta cho triều Hán thì nước Nam đã mất chủ quyền. Thời điểm ấy là năm 111 trước Tây lịch, con số dễ nhớ cho bầy hậu sinh chóng quên!

Múa rồng trước tượng vua Lý Công Uẩn chào mừng 1000 năm Thăng Long tại Hà Nội. Hoàng Đình Nam/Getty Images

Thế thì từ năm -111 đến khi Ngô Quyền xưng Vương năm 939, dân ta đã trải 1.050 năm Bắc thuộc. Rồi lại vùng ra được. Trên thế giới, có bao nhiêu trường hợp như thế?

Ngay tại chỗ, trong 10 thế kỷ, đất Lĩnh Nam – miền Nam núi Ngũ Lĩnh – hay “Quảng Châu” và các thị tộc “Bách Việt” sống trên đó đều dần dần bị Hán hóa, bị đồng hoá. Nếu còn, thì nay là thiểu số vô cùng tuyệt đối. Đất “Giao Châu” của ta (như tên gọi sau này) lại làm ngược: Việt hoá những người Hán trôi dạt xuống miền Nam, hoặc được phái xuống cai trị dân Nam.

Xin đọc lại: Trong ngàn năm Bắc thuộc, bên dưới những nỗ lực đấu tranh để giành quyền tự chủ – của các nhân vật lịch sử Trưng, Triệu, Lý, Mai, v.v… – là sự tranh đấu âm thầm của người Việt nguyên thủy và cả những người Hán được Việt hoá (Lý Bôn là một thí dụ) để giữ bản sắc riêng và chống lại sự đồng hoá. Đấy là hiện tượng đáng chú ý mà cứ hay bị lãng quên.

Bấy giờ, kể từ năm 939, đã có quyền tự chủ rồi, dân ta mới xây dựng nền độc lập, một tiến trình cũng rất chậm rãi và đầy loạn lạc.

Chỉ vì, từ nhiều nhóm nhỏ – các thị tộc, hào trưởng hay thế lực địa phương cả Hán lẫn Việt lẫn Hán-Việt – hết bị vương triều phương Bắc chi phối nữa, “dân ta” phải kết hợp lại để xây dựng “quốc thống”, một chế độ chính trị thống nhất của quốc gia. Chúng ta mất 70 năm để tiến hành việc đó, từ 939 đến 1009. Suốt giai đoạn chật vật này, không thiếu gì lãnh tụ nước Nam sẵn sàng mượn tay phương Bắc để tranh đoạt quyền bính. Con trai Ngô Vương Quyền là một thí dụ. Nhiều lãnh chúa trong thời gọi là “Thập nhị Sứ quân” cũng vậy.

Như vậy, khi lên làm Hoàng đế vào năm 1009, Lý Thái tổ phải cùng lúc giải quyết ba bài toán. Thứ nhất là dẹp nội loạn, thứ hai là xây dựng một chế độ thống nhất cho bá tánh, và thứ ba là ngăn ngừa ngoại xâm: phương Bắc đã đổi loạn thành trị. Nhà Tống đã thống nhất đất nước năm 960 và không hụt cơ hội nào để thôn tính nước Nam. Kinh nghiệm nóng hổi là khi cho tướng Hầu Nhân Bảo tấn công năm 981 – mà bị Lê Đại Hành đẩy lui…

Kể từ năm 1009, nhà Lý dần dần kiến tạo được nền móng vững hơn cho nước Đại Việt sau này. Đấy là quốc hiệu chính thức và gần như liên tục của nước ta kể từ năm 1054 cho đến năm 1804 khi Gia Long đổi tên thành Nam Việt rồi lãnh tên Việt Nam do nhà Đại Thanh đặt cho để tránh tên Nam Việt thời Triệu Đà! Năm 1820, vua Minh Mạng sáng suốt đổi quốc hiệu là Đại Nam dù nhà Thanh không chịu, và ta vẫn giữ tên ấy từ năm 1839 đến 1945 mới lại đổi ra Việt Nam!

Nhớ lại thì nhà Lý tồn tại liên tục từ năm 1009 đến năm 1225 – 216 năm gồm hai giai đoạn thịnh suy. Suy là từ thời Cao Tông Lý Long Trát lên ngôi năm 1175. Rồi bại là vào thời Huệ Tông Lý Long Sảm năm 1218. Sau đó, nhà Trần lên ngôi và tồn tại từ năm 1225 đến 1407, trong đó có ba lần đánh tan quân Nguyên Mông….

Nhớ đến ngàn năm Thăng Long thì trong 216 năm của nhà Lý, nước ta phải tiễu trừ nội loạn – từ các thế lực cát cứ lẫn các thị tộc thiểu số; phải ngăn ngừa ngoại xâm từ các nước Đại Lý, Chiêm Thành và một Đế quốc Chân Lạp khi ấy rất lớn và rất mạnh ở miềm Nam và Tây Nam. Đặc biệt hơn cả, nhà Lý là triều đại duy nhất của Đại Việt đã tấn công thẳng vào lãnh thổ Trung Hoa rồi thiết lập bang giao với cả nhà Tống và nhà Kim, cường quốc đã chiếm đóng phân nửa miền Bắc nước Tống!

Bên trong, nhà Lý xây dựng điển chế, phát triển giáo dục và phát huy Phật giáo, tạo dựng nền móng văn hoá riêng cho nước Nam. Nói đến nhà Lý, ta còn nhớ tới văn học, kiến trúc và tư tưởng rất độc đáo, trong đó có sự đóng góp của Phật giáo và cả văn hoá Chàm, đượm màu Ấn Độ. Ở bên dưới, sinh hoạt kinh tế cũng đã phát đạt hơn. Đại Việt khi ấy thực sự là cường quốc Đông Nam Á. Từ những mảnh vụn của chế độ Bắc thuộc mà gom lại thành một thực thể thống nhất và vững mạnh hơn, đó là công lao của nhà Lý.

Nhớ lại ngàn năm Thăng Long mà nhìn lại, chúng ta có thể học được những gì? Vận mệnh của Đại Việt được quyết định từ những nhà Ngô, Đinh, Lê, Lý rất xa xưa mà ta đã quên rồi.

Sau khi giành lại quyền tự chủ từ hơn ngàn năm Bắc thuộc, nước ta xây dựng được nền móng vững bền hơn cho quyền độc lập là từ thời Thái tổ Lý Công Uẩn trở về sau. Đại Việt đã kịp củng cố sức mạnh sau một giai đoạn nhiễu nhương kéo dài 70 năm. Trong giai đoạn ấy, Lê Đại Hành ngăn được quân Tống năm 981 nên tạo điều kiện cho nhà Lý và danh tướng Lý Thường Kiệt có sức bật gần trăm năm sau. Cũng vậy, nước Nam dưới nhà Lý đã phát huy được cái Việt tính cần thiết cho nhà Trần để ba lần đánh bại đạo quân đã tiêu diệt cả nhà Đại Tống và nhà Cao Ly và làm chủ từ Trung Á đến phân nửa Âu Châu. Sức mạnh ấy không chỉ kết tụ trong triều đình hay tầng lớp vương công quý tộc nhà Trần.

Oán nhà Trần hoặc luyến tiếc nhà Lý là chuyện của tầng lớp ở trên. Cũng thế, chê nhà Lý tội cướp ngôi của con cháu Lê Đại Hành là chuyện vặt. Nhưng lại là chuyện lớn của những kẻ viết sử theo kiểu “ăn cây nào rào cây nấy”. Trong quãng mây mù của thời gian, trải ngàn năm cho đến nay, thì quan điểm của những kẻ viết sử kiểu đó vẫn còn ảnh hưởng cho đến đời sau.

Nếu nhìn rộng ra ngoài, từ Đông qua Tây, ta mừng là Đại Việt có nhà Lý. Ngàn năm Thăng Long đánh dấu thời điểm sinh tử ấy. Sau đó, ta mới nhìn thêm là loạn thì dễ, chứ trị mới là khó. Khó nhất là khi những kẻ có quyền lại sợ loạn mà bóp nghẹt mọi khả năng suy nghĩ hoặc hành động nằm ngoài cõi chính thống. Đại Tống bại vong vì hiện tượng tư tưởng ấy. Và nếu triều đình chỉ nghĩ đến mình thì trị vẫn đổi thành loạn. Nhà Cao Ly trong cùng thời đại là trường hợp tiêu biểu.

Sau hai đời Lý và Trần, nhà Lê bắt đầu đi vào vết xe đổ tai hại này khi dựng Thánh giáo của phương Bắc thành chính giáo. Tầng lớp ưu tú nước Nam học đúng phép ổn định của phương Bắc và tưởng là tự Vương hoá mà thật ra là bị Hán hoá, với ngần ấy hậu quả bi thảm. Trong khi đó, cõi Âu Châu man rợ đã chuyển mình và sau thời Phục Hưng đã dần dần thoát xác… Khi Âu châu trưởng thành từ cuộc cách mạng văn hoá thế kỷ 16, tôn giáo vào thế kỷ 17, rồi chính trị vào thế kỷ 18, rồi khoa học kỹ thuật vào thế kỷ 19, chúng ta vẫn bơi trong dòng tư tưởng Bắc thuộc.

Leo lên đỉnh cao mà không xuống được nữa!

Sau thời Bắc thuộc bất đắc dĩ và kéo dài quá lâu, chúng ta lại có gần trăm năm Pháp thuộc. Rồi ra sức học hết (...) của cả Tầu và Tây. Là chuyện hôm nay…. khi Thăng Long và các dấu tích Lý, Trần, Lê (...) dưới những kiến trúc (...). Và sau (...) hiện hữu của (...), đất nước có thể trôi vào thời kỳ (...) mới, theo “(...)”, khi cả thế giới đã tiến qua thế kỷ 21.

Bước vào một năm mới và nhớ đến chuyện ngàn năm, chúng ta biết nói sao? Ôi Thăng Long! Ôi Thăng Long!...[NXN]

source

Viet Tribune Online

Cảnh báo về các dự án cho thuê rừng

Rừng đầu nguồn bị tàn phá (ảnh minh họa)

Đã có nhiều báo động đỏ về tàn phá rừng đầu nguồn

Hai nhà lão thành cách mạng vừa lên tiếng cảnh báo về việc Việt Nam cho nước ngoài thuê đất đầu nguồn trồng rừng trong khi địa phương bác bỏ quan ngại.

Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên và Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh cuối tháng trước đã công bố lá thư về việc 10 tỉnh trong nước "đã cho 10 doanh nghiệp nước ngoài thuê đất rừng đầu nguồn dài hạn (50 năm) trồng rừng nguyên liệu với tổng diện tích 305.3534 ha, trong đó Hong Kong, Đài Loan, Trung Quốc chiếm trên 264.000 ha; 87% ở các tỉnh xung yếu biên giới".

Các tỉnh đã ký hợp đồng cho nước ngoài thuê đất nằm ở cả ba miền Bắc-Trung-Nam.

Hai ông vạch rõ trong lá thư: "Đây là một hiểm họa cực lớn liên quan đến an ninh nhiều mặt của quốc gia" và "Mất của cải còn làm lại được, còn mất đất là mất hẳn".

Các tỉnh bán rừng là tự sát và làm hại cho đất nước. Còn các nước mua rừng của ta là cố tình phá hoại nước ta và gieo tai họa cho nhân dân ta một cách thâm độc và tàn bạo.

Thư của hai ông Đồng Sĩ Nguyên và Nguyễn Trọng Vĩnh

Theo phân tích của họ, tiềm ẩn hiểm họa là ở chỗ nước ngoài đã thuê được đất thì cũng có thể "phá rừng vô tội vạ".

"Các tỉnh bán rừng là tự sát và làm hại cho đất nước. Còn các nước mua rừng của ta là cố tình phá hoại nước ta và gieo tai họa cho nhân dân ta một cách thâm độc và tàn bạo."

Hai vị cựu tướng cũng cảnh báo về nguy cơ di dân, nhất là từ Trung Quốc, vào để thực hiện các dự án thuê rừng này.

Họ yêu cầu đình chỉ các dự án cho thuê rừng ngay lập tức.

Bức thư của hai ông khi công bố đã gây chú ý đặc biệt của dư luận, vì đất đai là tài sản quốc gia, và các mảnh đất địa đầu có ý nghĩa chiến lược vô cùng quan trọng.

Đây không phải lần đầu tiên các vị lão thành cách mạng phản đối các dự án khai thác nguồn lợi thiên nhiên ở Việt Nam mà theo họ gây ảnh hưởng xấu tới môi trường và xã hội.

Một số cựu tướng lãnh, trong có Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên, từng lên tiếng về việc khai thác bauxite ở Tây Nguyên, nhưng các dự án vẫn được tiến hành.

'Không cho thuê rừng phòng hộ'

Riêng tại tỉnh Lạng Sơn giáp với Trung Quốc, hiện đã có hai dự án cho nước ngoài thuê rừng.

Dự án thứ nhất đang được triển khai gồm 63.000 ha trồng rừng gỗ nguyên liệu cao cấp tại địa bàn 7 huyện. Dự án thứ hai chưa thực hiện gồm gần 9.500 ha trồng gỗ nguyên liệu bột giấy tại 4 huyện.

Lãnh đạo tỉnh Lạng Sơn bác bỏ quan ngại về nguy cơ "mất rừng". Ông Đào Đức Hoan, Chánh Văn phòng UBND tỉnh, nói với BBC rằng khi cấp phép cho các dự án, chính quyền địa phương đã cân nhắc kỹ lưỡng "vì lợi ích chung của cộng đồng, vì sự phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh và quốc gia".

Khi cấp phép cho các dự án, chính quyền địa phương đã cân nhắc kỹ lưỡng vì lợi ích chung của cộng đồng, vì sự phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh và quốc gia.

Chánh VP UBND tỉnh Lạng Sơn Đào Đức Hoan

Ông Lý Vinh Quang, Giám đốc Sở Kế hoạch - Đầu tư Lạng Sơn, thì khẳng định rằng đất giao cho chủ đầu tư nước ngoài hoàn toàn là "rừng sản xuất chứ không phải rừng phòng hộ" và "không có mua bán đất đai, chuyển nhượng sở hữu mà chỉ có cho thuê".

Ông Quang cũng nói cơ quan Tài nguyên-Môi trường tỉnh có cơ chế để giám sát các dự án sao cho bảo đảm về môi trường lâu dài và việc cho thuê đất được thực hiện theo đúng quy trình quy định của Nhà nước.

Nhận định về lá thư của các vị lão thành cách mạng nói ở trên, ông cho rằng đây "chỉ là ý kiến cá nhân", "có thể bắt nguồn từ thông tin không đúng và sai lệch".

Ông Lý Vinh Quang cũng bác bỏ quan ngại về yếu tố Trung Quốc trong các dự án, với lý do rằng quá trình thẩm định không phân biệt nhà đầu tư đến từ nước nào.
source
BBC Vietnamese

Thursday 11 February 2010

NĂM CỌP, TỰ HÀO THẦN HỔ VIỆT NAM


NĂM CỌP, TỰ HÀO THẦN HỔ VIỆT NAM
TỪ VÕ NGHIỆP DÂN TỘC ÐẾN TỬ VI, VIỆT DỊCH – ÐÔNG Y


Cao Thế Dung


Sức mạnh của cọp là ở xương cốt. Tinh anh của cọp toát ra ở đôi mắt. Tạp chí Ðịa Lý Quốc Gia Hoa Kỳ, ấn hành một số chủ đề về cọp Tây Bá Lợi Á, in trọn trang bìa mặt cọp, đôi mắt xếch, đôi chân to lớn quá cỡ với bộ ria trắng, dài và cứng. Thế giới cọp Ðông Bắc Nga ở vườn thú thiên nhiên rộng 190 dặm vuông, cọp sống trong bình yên, diễm tình, thơ mộng. Cọp đực đuổi cọp cái đầy âu yếm tình tự vui chơi rồi hai anh chị gối đầu nhau nằm ngủ trưa trên tuyết. Cọp dùng móng vuốt bốn chân leo cây. Cọp Nga không còn bao nhiêu. Cọp Mã Lai, Ấn Ðộ, Hy Mã Lạp Sơn và VN đang trên đà tuyệt chủng (Xem:National Geographic, vol. 191, no 3, Feb. 1997, “Siberian Tigers”, pp. 99-109 by M. Hornocker&photographs). VN xưa là một “rừng cọp”. Cọp Thượng Du, Trường Sơn, Tây Nguyên cho đến Cà Mau, Thất Sơn. Trong bài này, chúng tôi cống hiến quí đồng hương một đôi chút về Ðông Y, Khí và Thần qua xương cốt cọp và ria cọp sử dụng trong các trận đánh giặc Bắc xâm lược đã làm cho chúng hồn siêu phách lạc, trăm trận đánh trăm trận thua.

CỌP VÀ TỬ VI

Về Tử vi Lý số, phần lớn Tầu và Ta cho rằng phụ nữ tuổi Dần thì cao số, cứng tướng. Tuổi Hợi kỵ tuổi Dần! Không hẳn như thế, có hằng triệu-triệu phụ nữ tuổi Dần. Bao nhiêu phụ nữ tuổi Dần làm nên danh phận cho chồng, đảm đang nhưng cứng cỏi, thường là “khắc khẩu” với chồng. Lữ Hậu, vợ cả vua Hán Cao Tổ tức Lưu Bang (206-194 trc.CN) tuổi Dần, hưởng hạnh phúc bên chồng cho đến khi chồng chết. Lữ Hậu là người cơ mưu, quả cảm cứng rắn, lấy người chồng vô học tay trắng làm nên nghiệp đế. Lữ Hậu sinh giờ Dần, tuổi Giáp Dần. Mệnh ở Thìn có sao Liêm, Lộc, Lộc tồn, Ðế Xương, Bát toạ, Thái tuế. Cung Phu ở Ngọ, có sao Thất sát, Tham lang, Ðẩu, Ðiếu, Tam thai. Tử vi của Hán Cao Tổ Lưu Bang, sinh năm Giáp Ngọ, giờ Ngọ. Cung Thê thật tuyệt vời, có Thất sát, Văn Xương, Thanh long, Mộ, Phượng các, Ðiếu khách. Ðem 2 tử vi của Lưu Bang và Lữ Hậu, phối hợp lại gọi là CỘNG NGHIỆP thì chồng làm Hoàng đế, vợ làm Hoàng hậu, cho ta thấy Tử vi đúng đến 95%. Lưu Bang vào loại “Mệnh thân đồng cung-Tử vi hội tướng quân, song Lộc phụng nghi cách”. Lữ Hậu “Tử, Phủ triều viên, Giáp sinh nhân, song Lộc trùng phùng, hội Thái tuế, chuyên quyền chi cách”. Hán Cao Tổ chết, Lữ Hậu đoạt quyền của Hán Huệ đế, con trai duy nhất của bà ta. Huệ đế chết yểu, Lữ Hậu đoạt quyền hoàng đế của cháu, ngầm sai giết cháu nội, trực tiếp cầm quyền. Lữ Hậu trả thù vợ bé của chồng là thứ phi Thích Cơ “đốt tai, cắt mũi, móc mắt, cho uống thuốc thành câm, cho vào ở nhà xí, Thích Cơ thành “người heo” (Tư Mã Thiên, Sử Ký, Lữ Hậu bản kỷ, tr.164). Thái y dâng Lữ Hậu thuốc “Lão hồi xuân”, “Cải lão hoàn đồng”, Lữ Hậu thành cuồng dâm cho tuyển trai tơ to lớn “ngoại khổ” đưa vào cung giả vờ làm hoạn quan để phục vụ Lữ Hậu, đêm đêm vô độ. Bà nắm quyền hoàng đế được 7 năm thì chết vì bạo dâm.

CỌP TRONG TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN

Cọp là hình ảnh quen thuộc trong dân gian VN, phảng phất tính thiêng liêng. Cọp được thờ ở các quán Ðạo Mẫu, Ðạo Giáo, Ðạo Nội và một số đình, đền, nhất là đình miền Nam, “tại các đình miếu miền Nam trước cổng vào, người ta đều thấy tấm bia phù điêu hình hổ được tô bằng những mầu sắc dữ tợn. Tại miền Bắc các loại hình hổ này được gọi là binh hổ. Ở miền Nam được gọi bằng Thần Hổ hay Ông Hổ (dân gian gán cho hổ một sức mạnh thiêng liêng). Lại còn có bùa Ông Hổ “dán trước cửa ra vào với ngụ ý không cho tà ma quỷ quái vào nhà vì có hổ trấn trước cửa”. Các đình ở miền Nam như Ðình Phú Nhuận, Ðình Xã Thông Tây Hội ở Gò Vấp dựng miếu thờ “Ngũ Hổ” (Xem: Nguyễn Long Thao, Nghiên cứu một ngôi Ðình làng miền Nam-Ðình Phú Nhuận. Sàigòn 1974, tt.64-65). Nền Minh Triết của dân tộc Việt biểu hiện đơn giản nơi đồ hình VUÔNG TRÒN và là đạo vuông tròn, khởi nguồn từ âm dương, nam nữ, trời và đất, “Trăm năm tính cuộc Vuông Tròn (hôn nhân) - Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông”. Và đấy cũng là đồ hình Ngũ hành của dòng ÐẠO NỘI do Hưng Ðạo Vương Trần Quốc Tuấn sáng lập. Ngài là Ðạo tổ nên tôn là Ðức Thánh Trần. Ngũ Hành của Ðạo Nội và Ðạo Mẫu VN lại ứng với Ngũ Hổ. Hình vuông trong vòng tròn, 4 phía vòng ngoài: trên là Tây, dưới là Ðông, bên phải là Bắc, bên trái là Nam. Hình vuông vạch 2 vạch chéo thành 4 hình tam giác. Hình trên là hành KIM ứng vào Bạch Hổ, hình bên phải (phương Bắc) ứng vào Hắc Hổ, hành Thủy; hình bên trái (Nam), hành Hỏa ứng vào Xích Hổ (hổ đỏ), hình dưới cùng, ứng vào Thanh Hổ, hành Mộc. Giữa hình vuông, tâm điểm là hình tròn, trung ương, hành Thổ, ứng vào Hoàng Hổ. Vuông trong tròn mà tròn lại trong vuông. Nghĩa là trong dương đã có âm mà trong âm lại có dương.

Xưa, ta ngồi ăn trên xập, trên giường hay phản, trải chiếu hình vuông, đặt mâm gỗ hay mâm đồng hình tròn, cứ bốn người một cỗ, biểu hiện đạo Vuông Tròn trong cả ăn uống. Bốn người ngồi bốn góc là tứ trụ, chén nước mắm chấm chung đặt ở giữa mâm làm tâm điểm của cái CHUNG NHAU. Ngũ hành ở trong trời đất vuông tròn, ở cả 4 phương (không gian), ở trong thân mệnh con người. Ngũ hành: Thổ, thủy, hỏa, kim, mộc tương ứng với ngũ sắc: vàng, đen, đỏ, trắng, xanh tượng trưng bởi 5 loài hổ và đó là sức mạnh của Mẹ Thiên nhiên vũ trụ, của Trời đất và ngay trong con người (Xem: Nguyễn Ðăng Thục (GS), Lịch sử Tư Tưởng Việt Nam. Sàigòn 1963, phần “Ðức Thánh Trần”, tt.253-270, kèm biểu đồ. Nxb Tp HCM in lại 2 lần, 1997-1998).

CỌP VÀ VÕ TƯỚNG

Hổ được dùng làm biểu hiện của võ tướng. Xưa, võ phục thêu mặt “hổ phù”, trước bản doanh của tướng treo hổ phù. Ðại Việt sử ký Toàn Thư chép, năm 1427, Minh đế sai Chinh lồ tướng quân Liễu Thăng đốc xuất đại binh vượt ải Pha Lũy (Nam quan) cứu viện quân Minh đang bị quân ta vây khốn ở Ðông Kinh (Hà Nội). Lam Sơn nghĩa sĩ, “chém đầu y ở núi Mã Yên, lấy hơn một vạn thủ cấp giặc, lấy được hổ phù của Thăng -Tổng binh (tổng tư lệnh), Vương Thông phải xin hòa, rút quân về nước, bãi bỏ “Giao Chỉ tỉnh” (Ðại Việt). Vua Lê Thái Tổ cử Sứ thần sang Bắc Kinh, ta trả cho nhà Minh 13578 tù binh, 280 sỹ quan, 2137 quan lại (dân sự) 13180 tên lính “kỳ” (cầm cờ). 1200 ngựa chiến “đồng thời đưa cả chiếc song hổ phù và quả ấn bạc hai tầng của tên tướng giặc Liễu Thăng” (Tiến sĩ Ngô Sĩ Liên, Toàn Thư (sđd.) Q.X, tờ 46b. Bản chữ Nho (Hán) tàng trữ tại Thư Viện The Yenching (Yên Kinh), ÐH Harvard, Mass. USA, ký hiệu số 3545/2643). Hổ Trướng Khu Cơ là tên bộ binh pháp của danh nhân Ðào Duy Từ (1572-1634) nghĩa là nền tảng cơ bản ở nơi nhà tướng. Ðọc bộ binh pháp “Hổ Trướng” này ta không khỏi tự hào và hãnh diện về trí tuệ siêu đẳng của ông cha, vào thời Ðào Duy Từ, người Việt đã chế được hỏa tiễn, phép “chôn lửa thương dưới đất” (mìn), phép làm “hỏa tiễn chứa thuốc độc”, phép “đốt đuốc trước gió”, phép “nấu cơm ở trên đầu ngựa”, phép “lấy nước ngọt trong biển”, phép “đặt thủy lôi dưới nước”, phép “đặt tên ngầm dưới nước”, phép “làm cầu phao trăm cấp”& (Xem: Binh Thư Yếu lược. Phụ: Hổ Trướng Khu Cơ. Bản dịch của Viện Sử Học. Nxb KHXH, HN 1977, tt.408,409,410,417,420,422&) HỔ TRƯỚNG KHU CƠ hoàn toàn là “sản phẩm” vĩ đại của trí tuệ VN qua Ðào Duy Từ, không mảy may ảnh hưởng binh pháp và quân khí của Tầu.

HỔ CỐT - RIA CỌP VÀ THUỐC ÐỘC

Hổ trong sách Bàn Thảo, gọi là “Ô thố”, đại trùng, lý nhã. Sách Dịch quái thông nghiệm nói “Lập Thu hổ bắt đầu gầm. Tháng trọng Ðông (tháng 11) hổ (đực, cái) bắt đầu giao hợp. Lại nói: Hổ biết xông phá, biết vạch đất, xem chẵn lẻ để bói ăn. Hổ ăn thịt chó thì say. Chó là rượu của hổ. Thịt hổ chữa chứng âm tà, ma quái” (Cao Xuân Dục, Tổng Tài Quốc Sử Quán, Ðại Nam Dư Ðịa chí ước biên, Toàn Tập, T.4. TS Hoàng Văn Lâu, dịch và chú giải. Nxb Văn Học, HN 2003, tr.622).

Cao hổ cốt, một dược liệu “kỳ diệu thần phương”. Nay hầu hết là cao “hổ cốt giả”, Tầu nấu bằng xương chó! Vả lại, LHQ và cơ quan Bảo Vệ Hoang dã đã cấm. Số cọp trên toàn cầu không còn bao nhiêu. Có thể thay cao hổ cốt bằng dược liệu có hiệu quả tương tự mà tôi trình bày dưới đây. Về cao hổ cốt và dược liệu hổ, theo Hải Thượng Lãn Ông Y Tổ: “Hổ khỏe dữ lắm chỉ nhờ ở ống chân trước, vì tuy nó đã chết mà chân vẫn thẳng không ngã, cho nên xương ống chân mạnh gấp 100 lần so với xương ở các chỗ khác, mượn khí hữu dư của nó để bổ cho chứng bệnh bất túc, vị cay hơi nhiệt đã bẩm thụ khí dữ tợn, lại có công năng tân tán, cho nên dùng để đuổi tà trừ ác, kinh giản, bệnh điên, và chạy từ gân suốt đến xương, nếu đau ở eo lưng và lưng thì nên dùng xương sống” (Y tông Tâm Lĩnh, Vệ sinh Yếu quyết, tr.199). Cao Hổ cốt đã vĩnh viễn đi vào lịch sử Y dược Ðông Y.
Nói về bộ ria cọp phải nói đến nữ Tiến sĩ Nhân Chủng học Pháp Madeleine Colani, người đã khám phá ra nền Văn minh Hòa Bình, VN, cách nay khoảng 10,000 năm. Colani sống gần trọn đời ở VN, từ Hà Nội đến Hòa Bình, bà nói thông thạo tiếng Mường, đọc được chữ Mường (chữ Khoa đẩu). Với khám phá khảo cổ của Colani, Tiến sĩ W.G. Solheim II, ÐH Hawaii, tiếp nối công trình, năm 1972 ông phát hiện thêm các di chỉ Văn minh Hòa Bình, đi đến kết luận: “Văn minh Long Sơn và Ngưỡng Thiều ở Hoa Trung nước Tầu là di sản của Văn minh Hòa Bình”. Kết luận của Solheim được giới Khảo cổ học quốc tế công nhận (W.G. Solheim II, National Geographic, vol.139, No 3, 1971, “New light on a Forgotten Past” (Ánh sáng mới về một quá khứ đã bị lãng quên). Khám phá mới nhất của Nhân chủng học cho ta biết, loài người hôm nay ở các châu lục và hải đảo phát xuất từ Ðông Phi (Kenya-Sudan-Somalia). Trên tấm bản đồ về cuộc hành trình di dân của cổ nhân, ngoài Ðông Phi ra còn một điểm xuất phát khác nữa, đi lên phương Bắc lại khởi nguồn từ vùng Hòa Bình ngày nay (Scientific American, July-2008 (số chủ đề). Prehistoric migrations (Các cuộc di dân tiền sử). New genetic evidence reveals clues to the first human journeys. (Chứng liệu chủng loại mới phát hiện được đầu mối cuộc hành trình đầu tiên của con người). Người Hòa Bình thời Viễn cổ là chủng loại ra đời tiên khởi ở VN (cư dân Cúc Phương) rồi đi lên phương Bắc (Tầu), Ðài Loan, Nhật Bản. Con người Hòa Bình đã sớm văn minh, dân tộc Mường ngày nay là hậu duệ ở rải rác các tỉnh Thanh Hóa, Sơn Tây, Vĩnh Phúc nhưng đa số tập trung ở tỉnh Hòa Bình (Xem: Cửu Long Giang (cựu Tr. tướng Nguyễn Bảo Trị) và Toan Ánh, Miền Bắc Khai Nguyên, Sàigòn 1968, t. Hòa Bình, “Dân cư”, tt.246-247). Thế kỷ 15 trở về trước, chưa phân biệt Mường-Kinh. Mường là đơn vị cư trú của dân tộc thiểu số Thượng Du. Mường là Lạc Việt miền núi, Kinh là Lạc Việt ở trung du và đồng bằng. Dân Mường có tài bắn nỏ với mũi tên đồng hay tre già tẩm thuốc độc. Ts Colani đã dự kiến và cũng là cuộc thử nghiệm bắn tên tẩm thuốc độc. Mũi tên đồng có 3 ngạnh, đã bắn vào người ta thì không thể rút mũi tên ra được. Một con trâu ở tuổi đầy cường lực, từ cách xa, dân Mường bắn tên tẩm độc vào mông nó, chỉ sau 3 giờ, trâu lăn ra chết. Theo Colani, cách chế tạo thuốc độc là một bí truyền, người Mường chỉ cho bà biết một phần sơ khởi: săn được cọp, họ nhổ ít sợi ria mép cọp. Ðoạn, lấy một miếng thịt heo tươi rồi cắm ria cọp vào thật sâu. Ít lâu sau, thịt heo thiu rữa sinh ra một loại sâu trông xanh biếc. Họ đem sâu phơi khô rồi tán thành bột hòa với thuốc bí truyền rồi ngâm mũi tên đồng hay tre một thời gian. Nhờ loại tên tẩm thuốc độc, quân ta đã nhiều lần làm cho giặc Bắc “táng đởm kinh hồn” chạy chết về Tầu qua Quỷ Môn, một cửa ải ở Chi Lăng “10 đi, 1 về” nên ta đặt tên là Cửa Quỷ, cũng có nghĩa là cửa Quỷ xâm lăng.

ÐÔNG Y VỚI TÀ KHÍ – CHÍNH KHÍ

Ðông Y coi KHÍ và THẦN là cơ bản trọng điểm của y lý. Ðây cũng là điểm khác biệt căn bản giữa Ðông Y và Tây Y. DS Ðỗ Ðình Tuân, Giáo sư Dược Khoa, ÐHDK Sàigòn trước đây là một danh y Ðông Y, ông khảo cứu tường tận về tinh-khí-thần, tuy là 3 mà chỉ là MỘT. Nói về khí mà khoa học Môi sinh trong 30 năm qua mài miệt khảo sát: Theo GS khả kính Ðỗ Ðình Tuân, trước sau chỉ có 2 điểm chủ yếu: TÀ và CHÍNH, “chính khí thắng thì tà khí lui, bệnh tật tất khỏi” (DS Ðỗ Ðình Tuân, Ðông Y lược khảo-Kinh lạc. Q.II, Sàigòn, 1970, tr.114). Hải Thượng Lãn Ông cũng quan niệm đại cương như thế. Ngài thi ca hóa: “Hít vào thanh khí, độc liền thải ra-Làm cho khí huyết điều hòa-Tinh thần giữ vững bệnh tà khó xâm-Lại cần tiết chế nói năng-Tránh làm quá sức, dự phòng khí cao” (Vệ Sinh yếu quyết, tr.39). Mỗi sáng, nên ra vườn sau, thở-hít ít nhất 20 lần: đứng thẳng (chớ cúi xuống hít-thở, dễ còng lưng mai hậu). Hít bình thường 5-10 cái rồi ngưng lại ít giây sau đó thở hắt ra 5 cái để tuôn khí thải ra. Khi màn đêm đã xuống, không nên ra ngoài hít thở, tránh âm khí. Khi mặt trời sắp lặn, còn nắng, nên ra ngoài vườn, hít thở vài ba chục lần để hấp thụ khí âm dương giao hòa. Vào sớm mai, hướng về phía mặt trời rạng đông hít-thở, thở-hít để hấp thụ nguyên khí. Ngàn xưa Nội kinh đã dạy ta: “Thày thuốc phải xét toàn diện, môi trường và khí hậu là trọng điểm để phán đoán” (Hoàng Ðế Nội Kinh, Tố Vấn. Q. hạ, tr.48).
Ung thư phổi tưởng là nan y, vẫn có thể trị được. Nên đề phòng trước. Phổi là chủ thể của thân mệnh. Trung niên và tuổi già phải TUYỆT ÐỐI, tôi dùng chữ tuyệt đối bảo trọng phổi. Thí dụ gặp lúc mưa gió, tuyết lạnh, mặc áo phong phanh, lúc về nhà phải uống ngay một ly nước nóng, nhấm nháp một miếng gừng. Nếu bị sưng phổi (pneumonia) sẽ là đầu mối cho các bệnh “nằm vùng” bùng lên “làm loạn”. Các bệnh tiềm ẩn trong lục phủ ngũ tạng có thể nằm yên đó mãi mãi cho đến khi ta tạ từ cõi tạm nhưng nếu có cơ hội là chúng sẽ bùng dậy, tuổi cao còn sức lực đâu mà chống trả. Hải Thượng Lãn Ông viết bộ Vận Khí bí điển, ngài chia làm nhiều loại khí như khí 4 mùa, khí trái thường, địa khí, thiên khí, phong khí “mưa nắng đã không giống nhau thì ngoài phạm vi nghìn dặm, nóng lạnh tất nhiên phải khác nhau, thổ nghi đã mỗi nơi một khác thì chứng bệnh do đó mà khác nhau” (Vận khí bí điển, tr.271). “Ngộ gió”, Ðông-Tây Y quan niệm khác nhau. Tây y tổng quát hóa là “đột quy”. Nhưng “ngộ gió” đối với Ðông y lại rất đa dạng. Các vị cao niên không bao giờ nằm, ngồi ở giữa 2 luồng gió lùa. Các bạn trẻ và trung niên khi uống rượu, bia cũng vậy, tránh ngồi giữa luồng gió lùa, ngồi ngoài trời không sao. Ta thường nói “phải gió”, nghĩa là bị tà khí bất thần đột nhập vào lúc nhân thể mệt, yếu. Về châm và cứu, Nam y đơn giản không rắc rối như châm và cứu của Trung y nhưng rất hiệu quả, thí dụ “cạo gió”. Trung y về châm cứu trước đời nhà Hán (thế kỷ II trước CN), phương pháp trị liệu gồm có 3 khoa: 1- Châm (Acupuncture); 2- Cứu (Moxa) 3- Án ma (hay mát-xa) (Kinésithérapie, massage) (Xem: BS Nguyễn Văn Thọ “Trị liệu pháp của Lãn Ông với trị liệu pháp của ít nhiều danh y Trung Hoa”. Tạp chí Phương Ðông, số 18, Sàigòn, 12-1972). Nam Y của ta sở trường về châm, cứu và án ma (mát xa). Ðặc biệt là cạo gió và xông hơi.

THẦN KHÍ – THỦY HỎA VÀ RƯỢU

Uống bia không tốt cho người cao niên, nhất là bữa cơm chiều, nên uống một ly vang nhỏ, vừa giảm “cholesterol” vừa bổ thần khí. Rượu ngâm Hà Thủ Ô có tác dụng “cải lão hoàn đồng”, bổ thận ích khí. Lưng gối đau mỏi, người uể oải, đau nhức, bữa cơm chiều nên uống một ly nhỏ rượu ngâm Hà Thủ Ô, gọi nôm na là cây sữa bò – Streptocaulum Juventas Apocyum Juventas, nhiều tinh bột với hoạt chất anthraglucoside, nhiều alcoloide. Phương thang ngâm rượu thuốc: 100g hà thủ ô, 50g Phục linh, 100g thục đậu, 50g phòng phong, 30g cam thảo, ngâm với 2 lít rượu trong 10 ngày, lấy nước thứ nhất ra, đổ thêm 2 lít nữa, ngâm một tháng, lấy nước thứ 2, uống 1 ly nhỏ trước bữa ăn trưa, chiều. Lá, dây, củ thái nhỏ (kỵ sắt), ngâm nước gạo 3 đêm ngày, phơi khô, sao vàng, nấu nước uống hay ngâm rượu, bổ ngũ tạng, điều hòa âm dương. Không nên mua rượu Ngũ gia bì “Made in China”, độc hại, phần nhiều là giả. Ngũ gia bì Ðài Loan rất tốt, khả tin. Bổ Thần-Khí không gì tốt bằng hai thứ rượu Hà thủ ô và Ngũ gia bì, ta có thể nấu lấy, đơn giản: Ngũ gia bì sao vàng 100g, rượu 1 lít. Ngâm trong 10 ngày, thỉnh thoảng lắc đều. Ngày uống một ly nhỏ vào buổi tối trước bữa cơm chiều, chữa đau lưng, đau xương, nhức mỏi, bần thần (Cao Thế Dung, Y Dược Ðạo. Q.II, bản lay-out, tt.413-416).

Thân khí quan hệ mật thiết với thủy và hỏa như xương với da. Thủy và hỏa lại tác động trực tiếp đến phổi. Trong Y tông tâm lĩnh, Lãn Ông cho rằng: “Trăm bệnh gây ra, không bệnh nào không vì hỏa. Thủy là nguồn của muôn vật. Hỏa là cha của muôn vật, nguồn hay cha đều căn bản ở thận cả” (Huyền Tẫn Phát Vi, tr.23). Thủy-hỏa tiềm tàng trong cái ăn, thức uống hàng ngày. Tây dược không có loại Vitamin nào gọi là bổ thần, bổ khí. Thánh Y Tuệ Tĩnh, vị Hòa thượng tài danh, Minh đế cưỡng bức ta phải “cống” Hòa thượng, đưa qua Kim Lăng chữa bệnh hậu sản cho Hoàng hậu (vua Minh Thành Tổ), các danh y Tầu, Cao Ly và Nhật phải bó tay. Thánh Y Ðại Việt đã chữa lành bệnh cho hậu, Minh đế giữ ngài ở lại Tầu làm Thái y, không cho về nước, sau được tôn làm “Nam Thiên Y Thánh”. Phương thuốc của ngài thật đơn giản, vẫn là vấn đề thủy-hỏa và chân khí tức khí chân nguyên do khí tiên thiên (từ trong bào thai) và cốc khí (cơm gạo, sữa mẹ, thức ăn, thức uống) do khí hậu thiên hợp thành (Tuệ Tĩnh, Hồng Nghĩa Giác tư y thư, tr.60 – Về y lý, xem: Khôn Hóa Thái Chân, tr.76). Thái y không được phép cầm tay Hoàng hậu xem mạch. Phải làm sao? Xem mạch là cơ bản của Ðông Y “mạch là thực thể của âm-dương, gợn sóng của khí huyết do nguyên khí của tinh thần và tinh hoa của tạng phủ” (Xem: L.Y Phan Văn Sỹ, Y Dịch Lục Khí. Nhóm NC Y Dịch Lục Khí. Tp Biên Hòa, 1991, tr.30). Cụ Nguyễn Ðình Chiểu trong sách “Ngư Tiều Vấn Ðáp” nói: “Y là Dịch”. Lãn Ông thấu triệt Dịch “Thái Ất thần kinh”, nắm vững mạch lý Thái Ất. Ngài nói: “trong nhân thể có một bầu vũ trụ”. Hòa thượng Tuệ Tĩnh quán thông Y Dịch, chữa lành bệnh hậu sản cho Hoàng hậu của Minh đế là do ngài nắm vững y lý chân nguyên. Hòa thượng soạn bộ Nam Dược thần hiệu với chủ trương “Thuốc Nam Việt chữa người Nam Việt” với 406 bài thơ và các loại dược tính, Hải Thượng Lãn Ông chép vào sách Lĩnh Nam bản thảo và các bộ Hành giản trân nhu – Bách gia trân tàng. Chủ trương của Tuệ Tĩnh là phải “giữ gìn tinh-khí-thần để sống lâu” (Xem: Nguyễn Bá Tĩnh, Tuệ Tĩnh Toàn Tập. Nxb Y Học, HN 1998, 507tt. Khổ lớn 19x27cm. Phần Tiểu sử, tt.9-10: đi tu từ năm 6 tuổi, 22 tuổi đậu Hương Cống (Cử nhân), năm 45 đậu đầu kỳ thi Ðình đời vua Trần Dụ Tông (1312-1377), tức Hoàng Giáp, ít lâu sau Tiến sĩ Nguyễn Bá Tĩnh bị bắt đưa qua tiến cống Minh đế. Ở đây, thêm một chút ghi chú: Từ nhà Nguyên (Mông Cổ thống trị Trung Hoa) đến nhà Minh thường có thói bắt “An Nam” phải tiến cống nhân tài và các nhà Sư. Bộ Sử Cương Mục chép: tháng 3 năm Giáp Tý (1384) đời vua Trần Ðế Hiện “Sứ thần nhà Minh sang yêu cầu ta dâng nộp các nhà Sư”, nhân Nội quan (Thái giám) người Việt là Nguyễn Tông Ðạo nói với vua Minh: “Phép thuật Sư Nam giỏi hơn Sư Bắc (Trung Quốc). Ðến đây Minh sai Sứ sang yêu cầu. Nhà vua tuyển lấy 20 vị Sư đưa sang Kim Lăng (kinh đô đầu tiên của nhà Minh) (Xem: Cương Mục, Chính biên, Q.XI, t.1). Có thể HT Tuệ Tĩnh bị đưa qua triều cống Minh đế vào dịp này.

VIỆT DỊCH: NAM Y VÀ TRUNG Y

Do tự ti mặc cảm, do cả ngàn năm Bắc thuộc, cứ cái gì hay và tốt đẹp ta cho là của Tầu. Nay cần phải hiệu đính lại. Tại sao Thái Y Viện của nhà Minh với các danh y tập trung từ khắp nước về Kim Lăng không chữa nổi bệnh hậu sản cho Hoàng hậu, chỉ còn chờ ngày lìa trần mà HT Tuệ Tĩnh chữa được bằng Nam Y. Hoàng hậu ở nơi cung cấm sống xa hoa chắc là được Hoàng đế sủng ái, sau khi sinh phải một thời gian kiêng cữ “mây mưa”, nhưng chắc vua vẫn cho vời Hậu vào long sàng. Một người thông minh xuất chúng như HT Tuệ Tĩnh chắc hẳn ngài đã giải đoán được căn bệnh: Nam Y gọi là bệnh “sản ròn” với nhiều trạng thái lâm sàng khác nhau. Ở trong cung cấm, gốc bệnh của nó là TÂM KHÍ. Theo Lãn Ông “Tâm là chúa tể nên mới gọi tâm là quân chủ, cho nên quân chủ (tâm) sáng suốt thì dưới mới yên, dưỡng sinh như thế thì sẽ sống lâu, nếu quân chủ không sáng suốt thì 12 cơ quan kia sẽ nguy hại làm cho khí huyết bị bế tắc không thông, hình thể sẽ bị tổn thương nặng, dưỡng sinh như thế thì sẽ bị tai hại” (Nội Kinh yếu chỉ, tr.80. Y Gia Quan Miên, tr.86-87). Theo GS Ðỗ Ðình Tuân, với y lý không khác y tổ “Chính khí ở tâm tỏa ra thần. Chính khí suy yếu cơ thể suy nhược gây ra bệnh” (GS Ðỗ Ðình Tuân, Ðông Y lược khảo, sđd, tr.114). Tâm giữ được nguyên khí thì thần sáng. Thần sáng thì có thể trầm tĩnh, xua được tà khí. Hơn nữa, căn nguyên của bệnh hậu sản của giai nhân như Hoàng hậu hay con gái nhà giầu với một ông chồng sức vóc to lớn và cường lực như Minh Thành tổ, không kiêng cữ cho vợ mới sinh, nên vợ mất quân bình âm dương, tà khí xâm nhập, mắc bệnh, nhân thể suy nhược, không đủ sức chống trả. Do vậy từ HT Tuệ Tĩnh đến Lãn Ông đều nhất thiết cho rằng khí huyết của phụ nữ vào thời kinh nguyệt hay sau khi sinh là trọng yếu. Mắc bệnh thuộc về khí huyết hay hậu sản, vừa thuốc thang chữa trị, vừa phải BỔ KHÍ, mà bổ khí không gì bằng ăn uống theo đúng phép NHIẾP SINH. Nhiếp là quyền nhiếp, giữ vững sự sống.

VIỆT DỊCH VÀ ÐÔNG Y

Ðông Y thâm sâu về y lý, tinh diệu về phương thang, đoán định bệnh căn bản ở Dịch Lý. Có ba bộ Dịch: Dịch Liên Sơn, Dịch Quy Tàng và Chu Dịch. Hầu hết sách khảo cứu về Dịch của các học giả Tầu đều cho rằng: “Liên Sơn-Quy Tàng đã thất truyền chỉ còn lại bộ thứ ba, nên nói Kinh Dịch chính là Chu Dịch” (Dương Ngọc Dũng-Lê Anh Minh, Kinh Dịch-Cấu hình Tư tưởng Trung Quốc. Nxb KHXH, HN 1999, 770 tt-khổ lớn, 16x24cm. Phần Dẫn nhập (đã dẫn), tr.12). Không phải như vậy. Cần hiệu đính lại. Dịch Liên Sơn-Quy Tàng cỗi nguồn từ Dịch Phục Hy, thủy tổ Việt tộc. Liên Sơn-Quy Tàng là Việt Dịch nhà Hạ. Vua Ðại Vũ dựng lên nhà Hạ, lên ngôi năm 2205 trước CN, tức cách nay 4214 năm. Nhà Hạ đến vua Kiệt thì cáo chung (2205-1815 trước CN) ở ngôi 590 năm. Không rõ Dịch Liên Sơn-Quy Tàng ra đời vào triều vua nào. Dịch Liên Sơn là Việt Dịch. Nói được như thế vì vua Ðại Vũ là người Việt, Viễn tổ của Việt Vương Câu Tiễn nước Việt với đại phu Phạm Lãi và người đẹp Tây Thi. Sử gia Tư Mã Thiên nói rõ: “Tổ tiên của Việt Vương Câu Tiễn là dòng dõi vua Vũ, con thứ hai của vua Thiếu Khang đời nhà Hạ, được phong ở đất Cối Kê để lo việc phụng thờ vua Vũ, xâm mình, cắt tóc, phát cỏ mà lập ấp”(Tư Mã Thiên, Sử ký, “Việt Vương Câu tiễn thế gia”. Bản dịch của Phan Ngọc. Nxb VH Sàigòn, 2005, t.248). Tầu gom cả triều đại nhà Vũ Việt tộc vào lịch sử Trung Hoa. Lập lại: Dịch Liên Sơn-Quy Tàng là của hai nhà Hạ và Thương-Ân. Thương-Ân là Ðông Di, không phải Hán tộc (Xem: Giả Kính Nhan, “Thời Viễn cổ Trung Quốc có những dân tộc nguyên thủy nào?” trong Lịch sử Văn hóa Trung Quốc, T.I, t.222: “Tổ tiên của Ngu, Hạ, Thương, Chu không phải là Hoa Hạ” “Người Thương (Ân) vốn xuất thân là Ðông Di”).

Dịch Liên Sơn-Quy Tàng cũng do từ cội nguồn Dịch Phục Hy nên 64 quẻ, căn bản vẫn là càn khôn và âm dương. Dịch Liên Sơn chủ về Hỏa, không khác thuyết vũ trụ “Big-bang” của Jean Lemaýtre (Giáo sĩ Dòng Tên người Bỉ). Sự hình thành vũ trụ khởi từ một tiếng nổ ầm với độ nóng khủng khiếp. Người là một tiểu vũ trụ do Hỏa khởi điểm và âm-dương kết hợp. Trong cơn yêu dấu cực kỳ mãnh liệt giữa nam và nữ, cả hai nhân thể nóng ran toàn diện. Tinh phóng ra vào lúc dâm thủy ở độ nóng. Thủy-hỏa hòa vào nhau trong một khoảnh khắc, một hốt mang vi, nhanh hơn cả một sát na (một ngày 24 giờ có 6 tỷ 400 triệu sát na; 99,980 sát na tương ứng với 444,400,000 hốt mang vi). 300 triệu con tinh trùng, chỉ một con còn sống gặp trứng và THỤ TINH ở điểm MỆNH MÔN, cửa vào đời. Hỏa hạ, mồ hôi nam nữ toát ra, dâm thủy trở lại mức bình thường. Nếu thủy-hỏa bất bình thường sau cơn yêu dấu thì dù đã thụ tinh cũng không thành MỆNH. Chỉ có người Lạc Việt còn giữ được Dịch Liên Sơn-Quy Tàng, ta giấu kín, người Tầu không cướp đoạt được. Nhà Dịch học uyên bác Thái Quang Việt trích dẫn từ Thái Ất Thần Kinh của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm cho ta biết: “Thái Ất Thần Kinh là môn học Dịch Liên Sơn Quy Tàng-mệnh danh là “Dịch phái Nam học” phát triển huy hoàng tại hai thời nhà Lý và nhà Trần nước ta” (Xem: Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bản dịch của Thái Quang Việt. Nxb VH Dân tộc, 2001, tr.18). Trạng Trình san định Dịch Thái Ất Thần Kinh - Liên Sơn-Quy Tàng, 5 quyển. Ðây là bộ kỳ thư Phương Ðông, quốc bảo của ta mà Tầu không có. Giặc Ðô hộ Minh (1407-1427) cướp của ta bộ Thái Ất đưa về Kim Lăng nhưng ta cất giấu được bộ Liên Sơn-Quy Tàng. Mấy tên tướng Hán như Lý Hằng, Lý Quán làm tôi đòi cho Mông Cổ kéo qua xâm lăng Ðại Việt, chúng đều quán triệt Chu Dịch, ứng dụng vào các thế trận (trận liệt) trong 3 lần đem đại binh đánh ta. Năm Ất Dậu (1285) và năm Ðinh Hợi (1287), 2 lần bị quân ta đánh tan “mảnh giáp không còn” là do Hưng Ðạo Vương Trần Quốc Tuấn lập “trận đồ bát quái cửu cung, theo hướng tám phương (mỗi phương một cung) còn trung ương là cung của thần Thái Ất hợp lại thành cửu cung”. Hưng Ðạo Vương soạn “Vạn Kiếp tông bí truyền” (Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư đề tựa) để dậy các tướng (Xem: Cương Mục, Chính biên, Q.VIII, tt.32-37). Hưng Ðạo Vương và các tướng lùa giặc vào “cửu cung bát quái trận đồ” như lùa con nít vào vườn hoang, giăng mắc lưới trời “thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu” (lưới trời lồng lộng thưa mà chẳng lọt). Danh tướng Hán gian như Ðại tướng Trương Văn Hổ, nhẩy lên thuyền chạy chết về đảo Hải Nam, chúng không phá được trận đồ của ta vì chúng chỉ biết trận đồ Chu Dịch của Tôn Tử mà không biết được Dịch Thái Ất Liên Sơn-Quy Tàng là tông bí truyền của ta. Trong 9 điều dẫn khởi, bộ Thái Ất Thần Kinh của Trạng Trình đã nói thật rõ: “Khoa Toán Thái Ất không phải gốc từ nhà Hán-Thái Ất Thần Kinh là Tổng thể Vũ trụ” (sách đã dẫn, tt.9-16, phụ lục chữ Hán. Q.I và II, tt.533-617). Cũng như thế, Y Thánh Tuệ Tĩnh và Y Tổ Lãn Ông quán triệt Dịch Thái Ất, nắm vững mạch Thái Ất, có thể bắt mạch người mẹ, thấu triệt mạch Thái Ất của mẹ mà tính được nhịp tim của con 3 tháng trong bụng mẹ.

Trong 64 quẻ Kinh Dịch, thì 32 quẻ mà hỏa là chủ thể. Thí dụ: Quẻ Mông, sơn-thủy; sơn chủ về hỏa; quẻ Ðại hữu, sơn-thiên, quẻ Hàm, trạch-sơn; quẻ Minh di, địa-hỏa; quẻ Ðỉnh, hỏa-phong; quẻ thứ 63, Ký tế-thủy hỏa; quẻ 64 Vị tế, hỏa-thủy; có 14 quẻ, thủy là cơ bản chủ yếu. Danh y ứng dụng thủy-hỏa trong y lý, y thuật lâm sàng.

Tổ tiên ta lấy CỌP - thần hổ để biểu hình cho KHÍ CỐT. Tuổi cao niên, xương cốt suy yếu hẳn, mềm, dễ gẫy. Có 2 điều cần ghi nhớ: đi đứng phải cẩn thận, hễ té ngã là nguy, mở đường rất ngắn đi về nghĩa địa. Hai, phải bổ khí, hàng ngày phải ra ngoài trời hít thở, tuyệt đối tránh uất giận, cần nói ít. Bổ khí không gì bằng ăn trái cây: táo là hàng đầu, chuối tiêu (còn có tác dụng nhuận trường), bớt hẳn cà phê, nên uống trà (trà nụ vối là nhất). Mùa đông, gặp khi mưa to gió lớn, phải giữ ngực cho ấm. HT Tuệ Tĩnh trong Nam Dược Thần Hiệu, dành quyển II viết về cách trị liệu 18 bệnh khí (sđd, tt.83-110). Ở Hải ngoại cần đề phòng bệnh sưng phổi, nó sẽ “đẻ” ra nhiều thứ bệnh khác. Vừa điều trị theo Tây Y, vừa có thể chống trả theo Ðông Y rất đơn giản: 1- Lá quýt rửa sạch, giã nát vắt lấy nước một bát mà uống. 2- Ra tiệm thuốc ta, mua Ý dĩ nhân (3 vốc tay) giã nát, lấy 2 bát nước, sắc còn một nửa, cho vào chút xíu rượu chia làm 2 lần uống.

NGỘ NHẬN VỀ TÊN GỌI THUỐC BẮC

Trong bài Tựa cho lần xuất bản đầu tiên bộ Nam Dược Thần Hiệu (10 quyển), Hòa Thượng Bửu Lai, tu ở chùa Hồng Phúc, ca tụng vinh tôn ba Vị Tổ Phục Hy (Dịch), Thần Nông và Hoàng đế (Y dược). Ba Vị Tổ này, sử sách Trung Hoa nhận làm Tổ của Hán tộc-Hoa Hán (Xem: Nguyễn Hiến Lê, Sử Trung Quốc. Văn Nghệ xb, Cali 2003, tt.46-47: “Tam Hoàng-Ngũ Ðế. Thật là lộn xộn, cùng một ông như Thần Nông khi thì gọi là Hoàng Ðế, khi gọi là Ðế, khi thì làm vua trước Hoàng đế, khi thì sau”). Tam Hoàng Ngũ Ðế người Tầu nhận làm thủy tổ nhưng sử Tầu vẫn là “Ý kiến mỗi người một khác nhau, vẫn chưa nhất trí” (Xem: Lý Hiểu Lộ, “Trung Quốc có Hoàng đế khi nào?” trong Lịch sử Văn hóa Trung Quốc, Q.I, t.69). Việt tộc những ngàn xưa thờ ba thủy tổ Phục Hy, Thần Nông và Hoàng Ðế, trước sau đều rõ rệt. Ðây là Tam tổ của Sở Việt, của nhà Hạ, của nước Việt-Việt Vương Câu Tiễn, của Dương Việt, Mân Việt, của Lạc Việt, Việt Ðông, Việt Tây nước Văn Lang và toàn khối Bách Việt. Trong huyền thoại, trong dã sử, trong tín ngưỡng quốc gia và dân gian, các vua Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Ðế là Tổ chung của Việt tộc. Phục Hy là đệ nhất Tiên tổ của ta. Trong niềm tin kính của Việt tộc, Phục Hy, Thần Nông và Hoàng Ðế là NGƯỜI. Dù vậy quốc sử của ta như bộ Ðại Việt sử ký Toàn Thư của Tiến sĩ Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê vẫn dè dặt đặt vào phần Ngoại Kỷ. Bộ sử Cương Mục của Quốc Sử quán triều Nguyễn đặt vào phần Tiền biên chứ không coi là Chính biên. Từ Phục Hy tức Ðế Viêm đứng đầu vua xứ này (Viêm Bang) qua Ðế Khôi tức Thần Nông đến Ðế Thừa, Ðế Tiết&” (Bùi Văn Nguyên, Việt Nam và Cỗi nguồn trăm họ. Nxb KHXH, HN 2001, phần Kinh Dịch Phục Hy, tt.32-55).
Ta quen gọi Thần Nông là “Tổ nghề thuốc Bắc, đản sinh của Tổ là ngày 28 tháng Tư âm lịch (3220-2700 trước CN). Nối chí Thần Nông là vua Hoàng Ðế (2700-2600) cùng với Tể tướng Kỳ Bá, “đời sau xưng là “Y Khoa Tam Kiệt”, thế kỷ thứ nhất trước CN “người ta đã soạn cuốn “Thần Nông Bản Thảo Kinh” kèm thêm 365 vị thuốc Bắc” (Xem: Phùng Bá Khanh, Lược sử về Thuốc Bắc. Tạp chí Bách Khoa, số 39, Sàigòn, 15-8-1958, tt.21-22). Ta quen gọi là thuốc Bắc, “cái quen gọi” ấy đã thấm sâu trong trí óc dân gian hơn 1000 năm Bắc thuộc. Thậm chí bậc danh Nho như La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp cũng gọi là thuốc Bắc.

Vua Quang Trung trên đường Bắc tiến đánh quân xâm lăng nhà Thanh Trung Hoa do Tôn Sỹ Nghị thống lĩnh với trên 200,000 quân cường khấu. Vào tháng Chạp năm Mậu Thân (1788), nhà vua dừng chân ở Nghệ An, đến thăm và vấn kế La Sơn Phu tử. Vua nói với Phu tử rằng: “Tôi mà dẹp được giặc Tầu xong, thì xin rước Thầy ra dậy học. Tôi muốn khí dụng gì cũng chẳng mua của nước Tầu”. Thầy Nguyễn Thiếp lại thưa rằng: “Chỉ có thuốc Bắc phải dùng của Tầu mà thôi” (Xem: La Sơn Phu Tử trong La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, T.II. Nxb GD, HN 1998, tr.1052 (in lại).
Cao Thế Dung
source
The Gioi Moi Online

Wednesday 10 February 2010

Những người anh hùng Yên Bái



Tôi đã đọc “Cuộc khởi nghĩa Yên Bái” trong tủ sách lịch sử Việt Nam.

Nguyễn Thái Học (1902-1930) sáng lập Việt Nam Quốc Dân Đảng và làm khởi nghĩa Yên Bái năm 1930

Tôi đã đọc “Nguyễn Thái Học và Việt Nam Quốc Dân Đảng” của nhà sử học Bạch Diện.

Tôi đã đọc “Nhà yêu nước Nguyễn Khắc Nhu” của chính con trai ông viết.

Lần giở từng trang sử Việt, tôi thật sự đã gặp những anh hùng, những người con của đất Việt thân yêu từ gần trăm năm trước. Hình ảnh cuối cùng đọng lại trong tôi là vào một buổi sáng mờ sương, rét căm căm, 13 người anh hùng hiên ngang lên máy chém thực dân. Có anh thoáng nụ cười, anh gật đầu vĩnh biệt, anh lặng lẽ nhìn đất trời, mắt trừng sáng quắc, hiên ngang ngẩng đầu thách thức, thẳng bước ung dung và giơ tay vẫy tạm biệt. Người vang khúc hát, kẻ sang sảng đọc thơ, cùng tung hô câu “Việt Nam vạn tuế!” tiếng hát ấy vọng theo sông theo núi vang rền trên quê hương Việt Nam, lặn vào trong đất Việt Nam, thấm vào từng con tim, thớ thịt của những con người Việt Nam từ ngày ấy đến muôn đời sau.

Tôi đã lặng người đi khi ngắm nhìn bức tranh bi tráng và hào hùng đó, lịch sử đã sản sinh ra những anh hùng bất khuất, dân tộc Việt Nam lại có thêm những người con trung kiên lẫm liệt, đem máu mình thấm vào đất mẹ để trăm năm sau người đời còn nhớ và truyền nhau khúc hùng ca dũng đó.

Suy ngẫm

Có nhiều điều để con cháu ngày nay kính cẩn nghiêng người và suy ngẫm.

Tôi khâm phục họ, những con người đương thời, vì dân tộc mà sống, chiến đấu và hy sinh anh dũng.

Tôi đọc lịch sử và thấm, thấm từ cách họ sống, họ suy nghĩ và đấu tranh từ cách anh em nghĩa sĩ đối đãi với nhau như người thân thuộc.

Tôi suy nghĩ mãi về mẫu chuyện Nguyễn Thái Học từ chối lời đề nghị trốn trại của một cai ngục sau khi ông bị bắt cùng 12 đồng chí khác, hồi hộp và mong chờ trước hình ảnh ông ngồi suy tính và quyết định, ông nhớ từng nét mặt, từng thói hay tật xấu của từng anh em nghĩa sĩ của mình, ông lo cho họ, lo lắng thật nhiều. Tôi đã lặng thật lâu sau đó khi đọc đến đoạn ông thinh lặng cả tuần lễ để suy xét về quyết định từ chối của mình việc cùng trốn ngục. Không phải vì ông yếu bóng vía hay hèn nhát mà rốt cuộc cũng chỉ vì lo cho những người anh em. Thế đấy, tấm lòng ông nặng về đạo đức và trách nhiệm, trọng tình cảm hơn là vội vàng, toan tính và thủ đoạn.

Tôi đã đọc và cảm nhận trong cuộc Tổng Khởi Nghĩa Yên Bái những sắc thái nổi bật hơn cả những gì mà nhiều sách sử đã từng viết. Đó chính là hai từ tình nghĩa. Thứ tình nghĩa toát ra từ chính những con người lãnh đạo, từ chính lòng nhân dân. Tôi đã đọc đến đoạn cuộc họp ở làng Võng La, khi bị gián điệp bán đứng và giặc bao vây, thì chính những người lãnh đạo được nhân dân cưu mang che chở. Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu được người dân cho mượn áo, cuốc xẻng vờ giả làm nông dân ra đồng, các đồng chí khác cũng len lõi vào cùng với dân làng. Phó Đức Chính thì được một người phụ nữ vừa sinh xong giấu vào ổ rơm, khi đó ông bị thương rất nặng.

Tôi để ý đến cái tình người trong cách các ông đối đãi với nhau và với những nghĩa sĩ anh em, sống như các ông, sống hết mình và tràn đầy nhiệt huyết.

Tôi đã nhìn thấy cô Giang trong hôm Nguyễn Thái Học bị chém. Tôi cảm nhận được nỗi đau của cô, tôi đã đọc hai bức thư cô viết và lặng người rất lâu trước gốc đa bên đường nơi người con gái trung liệt ấy tuẫn tiết.

Tôi đọc về thời đi học của Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu, thấy nhiều câu chuyện ấn tượng, về nếp sống, về suy nghĩ, về cách nhìn đời và lý tưởng của các ông. Các ông sống có lý tưởng và có cái nhìn thức thời trước thời cuộc và vận mệnh đất nước.

Nguyễn Khắc Nhu cũng là một thanh niên hiếu học, yêu nước, trọng đạo, ông yêu dân và quan tâm đến việc cải cách xã hội, ông dạy học, bốc thốc chữa bệnh, ông vận động nhân dân đào giếng uống nước sạch, dệt khăn cho từng người dùng riêng, giảm bớt nhiều hủ tục lạc hậu trong nhân dân.

Tôi để ý đến cái tình người trong cách các ông đối đãi với nhau và với những nghĩa sĩ anh em, sống như các ông, sống hết mình và tràn đầy nhiệt huyết.

Tôi cảm nhận được tiếng hét căm thù giặc nơi các ông. Tôi nghe văng vẳng bên tai lời Nguyễn Khắc Nhu thống thiết kêu gọi quân lính đầu hàng, chĩa giáo mác về phía quân thù trong cái đêm khởi nghĩa ấy. Tôi hiểu ông suy nghĩ thế nào khi bị thương và tự sát, mà phải tự sát đến lần thứ ba mới được chết để giữ tròn khí tiết. Cái chết oanh liệt của ông đã gây xúc động mạnh cho nhân dân cả nước, các sĩ phu yêu nước thời bấy giờ và muôn đời sau. Ông đã “vì dân quyên sinh, vì nước quyên sinh, vì đảng nghĩa quyên sinh, thề chẳng tham nhìn giặc nước; lòng ông không chết, danh ông không chết, tinh thần ông không chết, quyết đem cái chết giục đồng bào”.

Việt Nam hiện nay ca tụng nhiều chiến công lịch sử, nhưng chưa nói hết về Nguyễn Thái Học

Tôi còn ngạc nhiên hơn khi đọc câu chuyện lãnh tụ Nguyễn Khắc Nhu tự nguyện sát nhập tổ chức Việt Nam Dân Quốc vào Việt Nam Quốc Dân Đảng, và bằng lòng đứng dưới quyền chỉ huy của một người sinh viên kém ông cả về tuổi đời lẫn kinh nghiệm đấu tranh. Ngẫm nghĩ mãi, tôi mới hiểu rằng lịch sử có lý do khi khắc ghi tên tuổi của họ. Bởi vì những con người ấy đã có một hành động thật bình thường và rất tự nhiên - họ đã đặt quyền lợi quốc gia dân tộc lên trên quyền lợi của đảng phái và cá nhân.

Khi nói về cuộc Tổng Khởi Nghĩa Yên Bái nhằm dân chủ hóa Việt Nam và Đông Dương của Việt Nam Quốc Dân Đảng, khi nói về Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu, Phó Đức Chính, Đoàn Trần Nghiệp, Cô Bắc, Cô Giang, Đỗ Thị Tâm, thú thật, người Việt Nam nhiều thế hệ nay ít ai biết đến, hay chỉ là biết rất sơ sài và tổng thể đó là một cái gì đó mờ nhạt, ánh lên trong lịch sử rồi qua đi rất nhanh. Môn lịch sử trong nhà trường Việt Nam ít chú trọng đến tổ chức này, phong trào này và những cái tên này.

Đó là sự thật và là một thiếu sót vô cùng lớn vì người ta cần đọc lại một thời hào hùng của dân tộc mà đôi khi nhiều người đã cố tình bỏ qua.

Tác giả đang học đại học ở Việt Nam, là một trong những người nhận học bổng năm 2009 của Nguyễn Thái Học Foundation, một tổ chức đặt tại Hoa Kỳ nhằm vinh danh di sản của Nguyễn Thái Học. Bài viết đánh dấu 80 năm ngày diễn ra cuộc khởi nghĩa Yên Bái (10 tháng Hai 1930).

source

BBC Vietnamese

Ngư dân VN bị Trung Quốc tịch thu hải sản



Chợ cá miền Trung

Ngư dân miền Trung bị ảnh hưởng nặng nề

Ngư dân Quảng Ngãi cho hay họ lại bị tàu Trung Quốc chặn lại và tịch thu hải sản đánh bắt được gần quần đảo Hoàng Sa.

Báo Việt Nam nói ông Nguyễn Chín thay mặt một số ngư dân Lý Sơn đã báo cho lực lượng biên phòng rằng hôm 02/02, khi đang đánh bắt gần quần đảo Hoàng Sa, ông và 15 thuyền viên đã bị tàu cắm cờ Trung Quốc truy đuổi.

Ông Chín nói đây là tàu quân sự vì thủy thủ đoàn có trang bị đồng phục.

"Họ đuổi kịp và cập mạn tàu. Khoảng 20 người mặc quân phục dồn chúng tôi về phía mũi tàu, sau đó lục soát lấy hơn 500 kg hải sản. Họ vứt hai thùng nước ngọt xuống biển, đổ nước lạnh vào thùng chứa gạo ăn và yêu cầu chúng tôi về đất liền Việt Nam."

Hiện vụ việc đang trong quá trình 'xác minh'. Được biết Ban chỉ huy Bộ đội biên phòng tỉnh Quảng Ngãi đã báo cáo lên Ủy ban Nhân dân để tìm hướng giải quyết.

Ngư dân miền Trung, nhất là ngư dân Quảng Ngãi và Lý Sơn đã chịu nhiều thiệt hại trong thời gian gần đây vì ngư trường truyền thống của họ nằm trong vùng mà Trung Quốc cũng tuyên bố chủ quyền.

Năm ngoái, hàng chục tàu thuyền của ngư dân Quảng Ngãi đã bị Trung Quốc bắt, tịch thu tài sản và ngược đãi.

Trong một diễn biến khác, huyện Lý Sơn vừa đưa thêm một tàu khách cao tốc chạy tuyến cảng Sa Kỳ-Lý Sơn vào hoạt động.

Đây là tàu cao tốc thứ ba phục vụ hành khách đi lại tuyến cảng Sa Kỳ-Lý Sơn hàng ngày.

source

BBC Vietnamese

Wednesday 3 February 2010

Những nghi lễ quan trọng vào mùa Xuân dưới triều Nguyễn:


GS Nguyễn Lý-Tưởng
> Dưới chế độ phong kiến, vua thay Trời để cai trị muôn dân nên gọi là Thiên tử (con của Trời). Trên nguyên tắc, địa vị đó chỉ dành cho vua Trung Quốc là nước lớn trong thiên hạ, tất cả các nước nhỏ (chư hầu) đều phải thần phục Thiên tử. Dòng họ nào được Thiên tử thừa nhận và phong vương thì có quyền cha truyền con nối. Nếu có ai chống lại hay gặp trường hợp nước khác đem quân gây hấn thì Thiên tử sẽ can thiệp, hoặc các chư hầu cũng có thể nhân danh Thiên tử đem quân đến giúp để tái lập tự cho quốc gia đó. Dân có bổn phận trung thành tuyệt đối với vua, về phần vua, thì chịu trách nhiệm với Trời. Vì thế, cứ ba năm một lần, vua đi đến một chỗ đất nằm về phía Nam của kinh thành gọi là Nam Giao để tế Trời... Sách Kinh Dịch, một tác phẩm do Khổng Tử biên soạn cách nay vào khoảng hơn 2500 năm, trong đó thu nhặt những tư tưởng của người Trung Hoa về vũ trụ quan và nhân sinh quan, đã được phổ biến lâu đời trước Khổng Tử, có viết rằng: “Thiên sinh ư Tý, Ðịa tịch ư Sửu, Nhân sinh ư Dần.” Thiên (Trời), Ðịa (Ðất) và Nhân (Người) là ba yếu tố chính của vũ trụ, gọi là Tam Tài. Trời sinh ra từ Tý (Tý là giờ khởi đầu của một ngày, cũng là năm khởi đầu của một Giáp (12 năm). Trời là khởi đầu của mọi sư, mọi loài, mọi vật. Trời ở đây không phải là bầu khí quyển bao bọc chung quanh quả đất mà là một ngôi vị, một Ðấng thiêng liêng, Ðấng Tạo Hóa, Ðấng an bài mọi sự trong vũ trụ. Những câu trong sách Trung Dung như: “Thiên mệnh chi vị tính” (Tính là do Trời ban cho), “Ðạo xuất ư Thiên” (Ðạo từ Trời mà ra), “úy Thiên” (sợ Trời), “duy Thiên vi đại” (chỉ có Trời là lớn hơn cả), “Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu” (Lưới trời lồng lộng, thưa mà chẳng lọt),v.v... đều nói về một Ðấng Tối Cao trong vũ trụ mà tổ tiên chúng ta gọi là “Ông Trời”. Ông Trời mà tổ tiên chúng ta luôn tôn thờ và đặt niềm tin vào Ngài, chính là Thượng Ðế, Thiên Chúa hay Ðức Chúa Trời mà người Thiên Chúa Giáo tôn thờ. Ðó là niềm tin của cả dân tộc chúng ta, của tổ tiên chúng ta dưới thời vua chúa cho đến ngày hôm nay. Dù hình thức thờ phượng có khác nhau, nhưng niềm tin vẫn là có một Ðấng Tối Cao, Ðấng Tạo Hóa Duy Nhất, tạo dựng nên vũ trụ và muộn loài, muôn vật. “Ðịa tịch ư Sửu” (Ðất mở ra từ Sửu), nghĩa là Trời có trước, sau đó mới có Ðất. Sửu là giờ thứ hai sau Tý. “Nhân sinh ư Dần”, sau khi có Trời, có Ðất thì có Người. Con Người là do Trời và Ðất mà ra. Trời che, Ðất chở. Trời là Cha, Ðất là Mẹ. Trải qua gần một ngàn năm dưới chế độ cai trị của Trung Quốc, từ năm 938, Ngô Quyền thắng được quân Nam Hán đến đời Ðinh Bộ Lĩnh, nhà Lương mới chính thức thừa nhận nền độc lập của nước ta và phong cho Ðinh Bộ Lĩnh làm An Nam Quốc Vương. Dưới các triều Ðinh, Lê, Lý, Trần, Hậu Lê và Nguyễn, các vua Việt Nam bên ngoài vẫn theo lệ triều cống, thừa nhận vua Trung Quốc là Thiên tử. Nhưng bên trong vẫn là vua của một quốc gia độc lập. Cứ ba năm một lần, vua nước ta vẫn tổ chức tế Nam Giáo, tự xưng mình là Thiên tử đối với con dân trong nước. Năm 1806, vua Gia Long cho dựng Ðàn Nam Giao ở về phía Nam kinh thành, thuộc địa phận xã Dương Xuân, hằng năm cứ đến tháng trọng Xuân (tháng 2 âm lịch) thì quan Khâm thiên giám và bộ Lễ gieo quẻ dịch, chọn ngày tốt để cử hành đại lễ. “Quy chế của đàn chia làm ba tầng: - Tầng thứ nhất, đàn đắp hình tròn, có 5 án thờ: án chính giữ thờ Hiệu thiên Thượng đế và Hoàng địa kỳ; án phối hưởng thứ nhất, phía tả thờ Thái Tổ Gia Dụ hoàng đế; án phía hữu thờ Thế Tổ Cao hoàng đế; án phối hưởng thứ hai phía tà thờ Thánh Tổ Nhân hoàng đế, án phía hữu thờ Hiến Tổ Chương hoàng đế. Ðàn cao 6 thước 8 tấc, chu vi 30 trượng 3 thước 5 tấc, tô màu xanh, bốn mặt có thềm: ngọ giai (bậc phía nam) 15 bậc, đông, tây, bắc đều 9 bậc. - Tầng thứ hai, đàn vuông, có 8 án tòng tự; phía tả, án thứ nhất thờ thần Ðại Minh, án thứ nhì thờ các vì sao trong bầu trời, án thứ ba thờ thần Mây, thần Mưa, thần Gió, thần Sấm (sét), án thứ tư thờ thần Thái Tuế và thần Nguyệt Tướng; phía hữu án thứ nhất thờ thần Dạ Minh, án thứ nhì thờ thần Núi, thần Biển, thần Sông và thần Chằm (ao hồ), thần các núi Triệu Tường, Khải Vận, Hưng Nghiệp và Thiên Thụ đều tòng tự ở án này, án thứ ba thờ thần giữ lăng tẩm và phần mộ, án thứ tư thờ các thần kỳ trong nước. Ðàn cao 2 thước 5 tấc, vuông 72 trượng, bốn mặt thềm đều 5 bậc. - Tầng thứ ba, đàn cao một thước 9 tấc, vuông 130 trượng 7 thước, bốn mặt thềm đều 4 bậc. Góc đông nam là lò phần sài, góc tây bắc là huyệt ế mao huyết. Ba tầng đàn, xung quanh đều xây lan can, tầng thứ nhất tô màu xanh, tầng thứ hai tô màu vàng, tầng thứ ba tô màu đỏ. Khoảng đất vuông ngoài đàn đều trồng cây thông. Ngoài khoảng đất vuông xây tường bằng đá, chu vi 152 trượng 9 thước, bốn mặt đều mở ba cửa rộng. Phía đông bắc ngoài tường là thần khố (nhà kho), thần trù (nhà bếp), kho tế khí và nhà sát sinh; phía tây nam là trai cung, xung quanh xây tường gạch, mở hai cửa trước sau, trong tường và ngoài tường trồng nhiều cây thông.” (Trích “Ðại Nam Nhất Thống Chí” do Quốc Sử Quán triều Nguyễn biên soạn, phần nói về Kinh sư, bản dịch của Viện Sử học Hà Nội trang 23 - 24, nxb Thuận Hóa 1997) Chú thích của NLT: Hiệu thiên thượng đế (ông Trời); Hoàng địa kỳ (thần Ðất); Thái Tổ Gia Dụ (Nguyễn Hoàng), Thế Tổ Cao (Gia Long), Thánh Tổ Nhân (Minh Mạng), Hiến Tổ Chương (Thiệu Trị), núi Triệu Tường (núi có lăng Nguyễn Kim), Khải Vận (núi có lăng Nguyễn Hoàng), Hưng Nghiệp (núi có lăng Nguyễn Phúc Luân, cha của Gia Long), Thiên Thụ (núi có lăng Gia Long)... Thần Ðại Minh (mặt trời ban ngày), Thần Nguyệt Tướng (mặt trăng ban đêm), lò phần sài (lò thiêu con vật tế lễ), huyệt ế mao huyết (cái hố nhỏ để chôn lông và máu con vật tế lễ), trai cung (nhà dành cho vua ở lại một đêm để ăn chay, tĩnh tâm trước khi tế Nam Giao). Tài liệu trên đây cho chúng ta biết sơ đồ tổ chức xây dựng của Ðàn Nam Giao. 1. Ðoàn rước xa giá vua đến Nam Giao: Một tháng trước ngày Tế Nam Giao, vua sai bộ Lễ và Khâm thiên giám chọn ngày tốt vào giữa tháng hai âm lịch, tiếp theo đó là một thông báo được niêm yết tại kinh thành cho toàn dân biết ngày giờ và thành phần các quan được chọn để tổ chức Lễ Tế Nam Giao. Sau khi mọi việc đã chuẩn bị xong, vào sáng sớm, vua đến điện Cần Chánh, ngồi trên ngai. Quan có nhiệm vụ bảo vệ kinh thành đến, quỳ trước ngai, lạy vua 5 lạy, nhận cờ lệnh do vua trao, lạy thêm 5 lạy nữa rồi rút lui. Quan tổng quản thị vệ mời vua bước lên kiệu, lính khiêng kiệu bắt đầu đi thì trên kỳ đài bắn 9 phát đại bác và chuông trống trên lầu Ngọ Môn nổi lên cho đến khi vua ra khỏi thành thì mới ngưng. Trên đường đi, nổi chiêng trống và cử nhạc vang rền. Quan văn từ cửu phẩm đến lục phẩm, quan võ từ cửu phẩm đến tứ phẩm, không tham gia đám rước thì đứng hai bên đường, nơi có đặt hương án, quỳ gối khi xe vua ngang qua. Ðoàn rước xa giá vua đi, gồm 3 đạo quân: Tiền Ðạo, Trung Ðạo và Hậu Ðạo. Mỗi đạo quân đều có lính cầm cờ hiệu lệnh và cờ trang trí. Có những người lính gánh các bàn thờ đựng lễ vật để dâng cúng, người che lọng, tán, các trướng liễn, nhạc công, voi, ngựa... Lính cầm gậy truyền lệnh, lính cầm cờ mao, cờ tiết, cờ ngũ hành, cờ nhị thập bát tú, cờ có hình thù các con vật... Viên tướng chỉ huy đi giữa hai viên Chánh quản, rồi đến lính khiêng trống lớn, phèng la, lính cầm cái loa bằng đồng... ngựa kéo xe chở Long Ðình... Vua đi ở đoàn Trung đạo, có lính gánh bàn đặt các trang phục đại lễ của vua, có giường ngự để vua nằm, các đồ đạc vua dùng như kiếm vàng (kiếm lệnh), búa, gậy,v.v... Các quan văn võ và lính thị vệ đi bao quanh vua... Vua ngồi trên xe ngự giá có 4 lọng che, 20 lính hộ tống, quan Thái Giám, quan Tổng quản Thị vệ. Ði sau xe vua là các hoàng tử, quan phụ chánh, các đại thần hàng nhất phẩm. Ðoàn Hậu đạo gồm 28 người lính cầm cờ do quan Ðô Thống chỉ huy, có người gánh một hình người bằng đồng (đồng nhân) trên tay có cầm cái thẻ đề hai chữ “Trai Giới” theo phong tục để nhắc vua nhớ phải giữ chay tịnh, tĩnh tâm trước khi bước lên đàn tế. Các quan từ tứ phẩm trở xuống đi sau cùng với hai con voi được trang trí nịt da có khảm bạc và mặc áo màu sặc sở... 2. Các nghi lễ tại Ðàn Nam Giao: Khi xe của vua đến Trai cung, các hoàng tử, hoàng thân và các đại thần văn võ đều quỳ ở hai bên cửa trước Trai cung để đón vua. Khi vua đến gần, chuông trống và nhạc nổi lên. Vua đi vào bên trong nhà Trai cung thì chuông trống và nhạc... mới im bặt. Trai cung là ngôi nhà vua sẽ ở lại suốt ngày và đêm, vua phải ăn chay, nằm ngủ trên một chiếc giường với mảnh chiếu đơn sơ để tĩnh tâm và suy nghĩ về những việc làm của mình, có điều gì sai lỗi đối với Trời hay không. Với niềm tin vào mệnh trời, tất cả những thiên tai, mất mùa, dịch bệnh hay loạn lạc xảy ra cho dân, cho nước... và cho cả bản thân nhà vua đều là “lời cảnh cáo” của ông Trời cho vua biết rằng vua đã không làm tròn trách nhiệm của một vị Thiên tử, thay Trời để cai trị muôn dân. Vua phải biết ăn năn hối lỗi và phải làm những điều tốt đẹp cho dân để đền bù tội lỗi của mình đã xúc phạm đến Trời, xúc phạm đến Cha của mình vì vua là con Trời (Thiên tử). Bên trong Trai cung, có đặt một cái bàn dành riêng cho vua (gọi là châu án), trên đó có để một cái hộp đựng các tờ sớ. Vua dùng bút mực màu đỏ (châu: son) để viết tên của mình vào tờ sớ. Ðiều đó có ý nghĩa vua là vị chính tế và chỉ có vua (Thiên tử) mới có bổn phận tế lễ ông Trời (Tế Nam Giao) vì vua là con Trời, là người chịu trách nhiệm đối với Trời. Khoảng giờ Tý (từ 11 giờ đêm đến 1 giờ sáng) ngừơi phụ trách về nghi lễ hướng dẫn vua đến cổng bên phải, phía Tây, vua quay mặt về hướng Nam. Người hướng dẫn mời vua ngồi. Thị vệ múc nước đổ vào thau và mời vua làm lễ rửa tay. Sau đó là lễ thiêu trâu nghé: vua đến trước bài vị các thần, chuông trống nổi lên, vua vái trước hương án. Con vật đã được giết chết trước, xẻ thịt và đặt lên trên bàn thờ để đốt. Sau khi thiêu con vật, người ta đốt lông và huyết rồi chôn ở một góc. Vua đến bàn thờ quỳ xuống làm Lễ dâng hương: một người cầm lò hương và một người cầm bó hương quỳ hai bên vua, mời vua dâng hương. Lễ xin các thần giáng xuống trên bàn thờ: Người phụ trách nghi lễ xướng “Xin các thần hãy đến”, “Nổi nhạc thái bình”. Nhạc cử bài “Tân an thành chi chương” sau ba tiếng chuông là các loại nhạc cụ khác nổi lên. Lễ dâng ngọc và lụa: Ngọc và lụa là lễ vật quý “được dâng lên với tấm lòng thành để cầu cho đất nước được hạnh phúc, thịnh vượng và bình an”. Lễ dâng các vật tế và các món ăn: Vua quỳ và chấp tay ngang trán... Bài ca với ý nghĩa “kính mong vong linh trời xanh, đất vàng, cùng hiện diện rực rỡ uy nghi trước mắt chúng tôi trong ngày phúc trạch này... Kính mong các ngài nhìn xuống chúng tôi và ban ơn hạnh phúc vô bờ bến!” Ðọc sớ: Vua và các quan đều quỳ xuống, vị quan đến bàn thờ lấy tờ sớ (gọi là tuyên chúc) quỳ xuống đọc sớ. Ðọc xong rút lui ngay. Nhạc nổi lên trong khi vua bái trước bàn thờ. Lễ phân hiến (chia các thức ăn, lễ vật): Các quan đi từ Ðông sang Tây đến trước 8 bàn thờ và dừng lại. Người phụ trách nghi lễ xướng lên “lễ phân hiến”... Nhạc cử lên. Các quan quỳ, vị quan dâng hiến đến cầm hộp đựng lụa, người bưng bình rượu và ly rượu, chia các lễ vật ra và đặt ở các bàn thờ. Sau đó là Lễ dâng rượu lần thứ hai (Á hiến), nhạc công tấu bài “Ðiềm lành” ... “chúng tôi tôn thờ các ngài, chúng tôi dâng lên các ngài lễ rượu lần thứ hai này, các ngài là đức độ sáng thơm. Ngọc và lụa rất đẹp đẽ... Mong ngọn gió lành đến với chúng tôi! Cầu mong các vị thần thánh cao xa hiểu đến lòng thành của chúng tôi để ban ơn cho chúng tôi và con cháu đời sau càng ngày càng phát triển thịnh vượng!” Ðoàn múa các điệu múa gậy và sáo. Hoàng thượng đến bái vị. Rồi lễ dâng ruợu lần thứ ba, là lễ dâng cuối cùng, cử bài “Lễ tấu vĩnh thành chi chương” cầu cho được trường cửu.... Sau đó, các quan chia các lễ vật gọi là lễ tứ phúc tộ. Hai vị quan mang rượu đến mời vua uống “kính tâu hoàng thượng ẩm phúc” (xin mời vua uống rượu phúc) và “kính tâu hoàng thượng thọ tộ” (xin mời vua nhận thịt). Vua nhận rồi trao lại cho vị quan đứng gần đó. Vua bái lễ. Một số các bài vị, sớ, vật dùng khi hành lễ được đem đốt trong lò... Trong các lễ vật quý có hai viên ngọc xanh (bích ngọc) và ngọc vàng (hoàng ngọc) các quan đem bỏ vào hộp, đem về cất. Vua làm lễ “tống thần” tiễn đưa thần ra đi... Nhạc cử bài “tấu hi thành chi chương” (bài ca thịnh vượng)... Các quan đem lụa và các vật sử dụng trong buổi lễ đến lò đốt, vua đến chứng kiến. Vua hồi cung: Sau khi các nghi lễ kết thúc, quân lính xếp thành đội ngũ như lúc ra đi. Vua từ trên đàn xuống và trở về Trai cung. Các quan dại thần văn võ, hàng ngũ chỉnh tề. Quan Thượng thư bộ Lễ và người thị vệ phụ trách kiệu vua đi đến mời vua chít khăn vàng, mặc hoàng bào rồi lên ngai. Các vị trong hoàng gia và các quan đứng chầu hai bên. Quan bộ Lễ tâu lên vua lễ Tế Nam Giao đã kết thúc. Tất cả mọi người vào hàng, lạy năm lạy, rồi giải tán. Vua lên kiệu, lính hầu khiêng kiệu đi. Mọi người đứng hai bên cúi chào khi vua đi qua. Tất cả các nhạc khí cùng một lượt tấu lên. Khi vua về đến kinh thành, quan giữ cửa thành đứng đợi trong cổng để đón vua. Chín phát súng lệnh nổ lên khi vua vào cửa Ðại cung môn. Vua đi đến điện Cần Chánh. Lính thị vệ khiêng các bàn đặt thức ăn, ruợu, thịt “phúc tộ” theo. Vua lên ngồi trên ngai vàng. Quan giữ thành đến trao trả lại cờ lệnh cho vua rồi rút lui. Vua đi vào bên trong nội thất cùng hoàng gia “thọ tộ” (chia phần thức ăn đã dâng cúng thần linh trong lễ Tế Nam Giao).... (Phỏng theo tài liệu của R. Orband (nguyên Công sứ hành chánh tại Huế) và Léopold Cadière (Linh mục thuộc Hội Mission étrangère de Paris) đăng trên Bulletin des Amis du Vieux Huế, 1915) 3. Năm Mậu Tý (1828): Vua Minh Mạng đi tế Nam Giao, cầu phao qua sông Hương bị hỏng, các quan có trách nhiệm bị phạt... Tháng Hai năm Mậu Tý (1828) cách nay đúng ba lục giáp: 180 năm (1828-2008), vua Minh Mạng đi tế Nam Giao. Từ điện Thái Hòa, nơi vua ngự triều, qua cửa Ngọ Môn, bến Phu Văn Lâu, thẳng một đường đến Nam Giao. Thời đó, chưa có cầu qua sông Hương như bây giờ, nên vua ra lệnh cho Hữu Ty làm cầu phao bắc để rước xa giá vua qua sông. Các quan có trách nhiệm là Nguyễn Tài Năng (kỹ thuật), Phan Văn Thúy (kiểm tra) và Phạm Văn Lý (theo phò xa giá của vua) đã để cho tai nạn xảy ra, cầu bị nước tràn vào, các quan đều lo sợ ngả xuống sông. Nhưng vua Minh Mạng vẫn bình tĩnh, cho gọi thuyền rồng đi hộ giá trên sông đến để qua sông. Thấy vậy, các quan đại thần bèn lên tiếng buộc tội những người có trách nhiệm làm cầu... Nhưng vua Minh Mạng tỏ ra khoan hồng và chỉ xử phạt chứ không cho đưa ra trước một phiên họp của triều đình để luận tội... Các sử gia thuộc Quốc sử quán nhà Nguyễn đã ghi lại biến cố nầy như sau: “Tháng hai, ngày Bính tuất, tế Trời Ðất ở đàn Nam giao. Trước đây Hữu ty làm cầu phao để qua sông Hương, lại sai bày quân thí nghiệm. Ðến trước tế Nam giao một ngày, xa giá đến Trai cung, đi qua cầu phao nước sông tràn lên, bầy tôi đi theo đều sợ. Vua không biến sắc mặt, sai đổi lấy thuyền rồng theo hầu để sang sông. Người chuyên coi làm cầu là Nguyễn Tài Năng, người thí nghiệm là Phan Văn Thúy cùng người phù giá là Phạm Văn Lý đều bị đình thần tham hặc. Nhà vua đặc mệnh giáng cấp khác nhau. Dụ rằng: “Việc nước tràn lên cầu, cũng là việc bất ngờ không tính trước được, tình còn khá thương, cho nên gia ơn khiến biết răn mà thôi. Nếu giao cho công nghị, thì cũng khó vì bọn ngươi mà bỏ phép nước được”. (Ðại Nam Thực Lục Chính Biên, đệ nhị kỷ, quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, bản dịch của Viện Sử hộc Hà Nội, 1964, trang 18) Xa giá của vua thẳng đến Nam Giao, các quan không có nhiệm vụ đi theo đám rước cùng với dân các làng thuộc tỉnh Thừa Thiên, đều lập bàn thờ, đặt hương án, đốt hương trầm, quỳ hai bên đường cung kính đón vua. Khi xe của vua đi qua thì mọi người vái lạy và không một ai được nhìn thẳng vào mặt vua. Khu vực gần đàn Nam Giao là nơi dùng làm nghĩa địa của dân vùng Huế và Thừa Thiên, nên dân chúng kéo nhau lên trên các gò mả xa xa để được nhìn thấy xa giá và đoàn rước. Vua Minh Mạng ngồi trên xe thấy cảnh tượng đó thì ra lệnh cho quan Tổng quản thị vệ truyền cho mọi người không được dày xéo lên những mồ mả của dân, vua xem đó là một sự xúc phạm đến người chết và làm hư hỏng phần mộ của họ. Vua cho phép dân được đến gần, đứng hai bên đường xem đám rước. NĂM MẬU TÝ (1828): VUA MINH MẠNG ÐI CÀY RUỘNG TỊCH ÐIỀN Dưới thời vua Gia Long, không thấy sử sách đề cập đến việc vua đi cày ruộng tịch điền. (tịch: cày, điền: ruộng). Nhưng dưới triều Minh Mạng thì việc cày ruộng Tịch Ðiền để khuyến khích nông nghiệp ở trong nước là điều vua rất quan tâm. Mùa Xuân năm Mậu Tý (1828) nhà vua vừa tổ chức Lễ Tế Nam Giao xong, vừa tốn kém tiền bạc, ngân sách quốc gia, vừa vất vả cho quan, lính và dân trong nước, đặc biệt là quan dân tỉnh Thừa Thiên... Nhưng vua Minh Mạng không quản ngại sự khó nhọc và tốn kém đó mà lại còn ban hành một chỉ dụ thứ hai về việc tổ chức Lễ Tịch Ðiền vào Tháng 5. Vua cho rằng đời Trần đời Lê có tổ chức Lễ Tịch Ðiền nhưng cách tổ chức quá giản lược, chỉ làm lấy có chứ chưa hẳn là nhằm mục đích khuyến khích dân chăm sóc nghề nông, là nghề gốc của nước. Theo quan niệm xưa thời quân chủ, phong kiến thì “lấy nghề nông làm gốc” các nghề khác là phụ, hoặc trong khi công việc nhà nông rỗi rãi mới làm đến các nghề khác mà thôi! Vua là người học rộng, đọc nhiều sách vở xưa để lại nên nhận thấy các đời Trần đời Lê chưa tổ chức lễ tịch điền đúng như sách vở xưa của Tàu. Vì thế, vào tháng 2 năm Mậu Tý (1828) vua đã ban hành lời Dụ về việc cày ruộng tịch điền như sau: “Vua bảo bầy tôi rằng: “Ðời xưa vua cày ruộng tịch điền, để lấy gạo làm xôi tế Giao Miếu, nhân thể để xét thời tiết làm ruộng khuyên giúp nông dân, thực là việc lớn trong vương chính. Cái điển ba đường cày, sách vở còn chứng. Nước ta đời Trần đời Lê gián hoặc có làm nghi điển ấy, nhưng phần nhiều giản lược. Trẫm từ thân chính đến nay, chăm nghĩ đến dân, thường lấy việc dạy dân chăm nghề gốc làm gấp. Hiện nay triều đình nhàn rỗi, giảng tìm phép xưa, thực là việc nên làm trước. Nên chọn đất ở Kinh thành làm chỗ tịch điền” bèn sai đặt ở hai phường Hậu Sinh và An Trạch, bên tả dựng đài Quan canh, đằng trước làm ruộng đế tịch, đằng sau làm điện thay áo, bên hữu đặt dàn Tiên nông và đình Thần thương thu thóc. Sai Trung quân Tống Phước Lương coi làm. Thưởng tiền cho thợ và biền binh làm việc 5.000 quan. Lại đặt sở Diễn canh (tập cày) ở phía Bắc cung Khánh ninh, gọi là vườn Vĩnh trạch. Sai bộ Lễ bàn định điển lệ. Hàng năm cứ tháng trọng Hạ (tháng 5) chọn ngày tốt làm lễ.” (Ðại Nam Thực Lục Chính Biên, đệ nhị kỷ, bản dịch của Hà Nội, 1964, trang 21- 24) Vua cũng đi cày ruộng mở đầu cho vụ mùa trong nước. Vua ra lệnh chọn đất trong kinh thành làm chỗ tịch điền. Hàng năm vào tháng trọng Hạ (tháng 5) thì chọn ngày tốt để vua cày ruộng tịch điền. “Trước hết, phủ Thừa Thiên phải cho dân cày ruộng đó và chuẩn bị đất cho mềm. Năm ngày trước, vua ngự vườn Vĩnh trạch để xem tập cày. Một ngày trước, quan phủ Thừa Thiên chuẩn bị một cái roi, một cái cày, một thúng lúa, đặt lên án vàng trên thềm giữa điện Cần Chánh. Vua đến xem đồ nông cụ xong, quan bộ Hộ mang các thứ đó giao cho quan phủ Thừa Thiên tiếp nhận mang ra cửa Tả túc, đặt vào long đình. Nghi trượng nhã nhạc dẫn đường đi trước, tàn lọng che lên, đến cửa Tả đoan. Rồi lấy roi, cày, thúng lúa chia làm 12 phần, đặt ở Thái đình , theo thứ tự đi sau đến ruộng tịch điền, chiếu thứ vị bày ra, giờ tỵ ngày hôm ấy, vua đến cung Khánh minh trú chân. Biền binh đứng bày hàng ở tả hữu đường vua đi. Lại bày lính và voi, cờ súng ống ở ngoài tường ruộng tịch điền. Giờ Tý ngày ấy, Hữu ty bày lễ phẩm trên dàn Tiên nông. Canh năm, trống nghiêm ba hồi, thị vệ bày lỗ bộ ở ngoài cửa cung Khánh ninh. Ðến giờ Mão, vua đội mũ cửu long, áo hoàng bào, đai ngọc lên kiệu người dẫn trước, người theo sau, đúng nghi vệ. Nhã nhạc có bày nhưng không cử. Ðến tường phía sau đàn tiên nông, các quan mang mũ áo thường triều quỳ đón ở phía trong của phường. Vua đến bên đông đường thần lộ, xuống kiệu vào tế. Lễ xong vua ngự đến điện cụ phục, thay mang mũ Ðường cân cửu long, áo long bào chẽn tay, thắt đai ngọc. Bộ Lễ tâu xin làm lễ cày tịch điền. Vua đến chỗ cày, đứng trông hướng Nam, các quan đứng chầu ở tả hữu đài Quan canh; quan Thái thường tự xướng, quan Lễ bộ dâng cày, quan phủ Thừa Thiên dâng roi. Vua tay phải cầm cày, tay trái cầm roi, kỳ lão và nông phu đều 2 người dắt trâu, thị vệ 2 người đỡ cày. Ca sinh hát bài “Hoa từ”, nhạc sinh múa cờ màu; nhã nhạc cử nhạc. Phủ Thừa Thiên bưng thùng lúa đi theo. Hoàng tử cùng quan bộ Hộ đều cử một người theo sau vãi lúa. Vua cày 3 đường đi 3 đường lại xong, ngự lên đài Quan canh. Các quan ở dưới đài chia hai bên đứng hầu. Các hoàng tử, và thần công theo cày, đều đội mũ vàng mặc áo đỏ, cầm cày cầm roi cày 5 đường đi 5 đường lại, kế đến văn võ đại thần 9 người, văn đội mũ văn công, võ đội mũ hổờ đầu, đều mặc áo lam, cùng cầm cày cầm roi cày 9 đường đi 9 đường lại. Ðều dùng thuộc lại kinh huyện đi theo sau bưng thùng lúa vãi lúa. Lễ xong, vua ngự điện cụ phục, thay mặc long ào rộng tay, lên kiệu. Ðại nhạc nhã nhạc đều nổi. Các quan lại ở trong cửa phường quỳ tống. Vua về cung Khánh ninh. Các quan làm lễ khánh hạ. Ban yến và ban thưởng theo thứ bực. Quan phủ Thừa Thiên đem nông dân cày hết số ruộng tịch điền hơn 4 mẫu 4 sào, lấy hơn 2 mẫu 9 sào trồng lúa nếp, hơn 1 mẫu 4 sào trồng lúa tẻ. Sau khi gặt lúa, quan phủ Thừa Thiên hội đồng với bộ Hộ chọn lúa giống để riêng, còn thừa thì chứa vào kho Thần thương, gặp các tiết lễ Giao Miếu thì thổi xôi. Sau đấy hàng năm việc tế đàn Tiên nông đều sai Kinh doãn khâm mạng làm lễ. Lễ cày ruộng tịch điền thì nếu có quan phụng mạng làm thay, cùng những năm vua đi thăm địa phương thì cũng do Kinh doãn cày thay. Lại sai chọn mua thóc tẻ thóc nếp ở Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Trị, Sơn Tây thuộc Bắc thành, lấy những thứ chất gạo trắng tinh, mà khí vị thơm dẻo, giao cho phủ Thừa Thiên chứa để dùng làm thóc giống.” (Ðại nam Thực Lục Chính Biên, đệ nhị kỷ, bản dịch của Viện Sử học Hà Nội, 1964, trang 21 - 24) Qua trích dẫn trên đây, chúng ta thấy các sử quan nhà Nguyễn đã cung cấp cho chúng ta nhiều chi tiết về Lễ Tịch Ðiền rất giá trị. Có lẽ chưa có một sử liệu nào nói về Lễ Tịch Ðiền đầy đủ và chính xác như vậy. Chúng ta thấy việc tổ chức lễ Tịch Ðiền dưới đời vua Minh Mạng quy mô và mang nhiều ý nghĩa khuyến nông rất quan trọng. Gần đây, qua video, chúng ta cũng được thấy những hình ảnh xa xưa về lễ tịch điền được tổ chức dưới triều Nguyễn tại Huế. Nhưng so với tài liệu sử sách ghi lại thì việc tổ chức Lễ Tịch Ðiền vào tháng 5 năm Mậu Tý (1828) cách nay 180 năm, dưới thời vua Minh Mạng, quả thật to lớn hơn nhiều. Thật đúng như lời của vua Minh Mạng: “Hiện nay triều đình nhàn rỗi, giảng tìm phép xưa, thực là việc nên làm trước”. Ðúng là thời đại thái bình, thịnh trị của đất nước thì triều đình mới có thể tổ chức được một lễ tịch điền to lớn, quy mô và tốn kém như vậy! GS Nguyễn Lý-Tưởng
source

Tap Chi The Gioi Moi