Saturday 17 December 2011

Chùa Ba Đồn



(VienDongDaily.Com - 16/12/2011)
“Chùa nớ thờ vong người bị Pháp giết trong ngày kinh đô thất thủ năm Ất Dậu. Ông cứ lên đền Nam Giao hỏi người ta chỉ cho”.
Bài và Ảnh: Trần Công Nhung/Viễn Đông


Cổng chùa Ba Đồn

Huế có thể nói là quê hương của Lăng Tẩm - Chùa – Đền – Điện – Miếu. Du khách đến Huế ai mà không nghe danh lăng Tự Đức, chùa Thiên Mụ, chùa Diệu Đế, đền Nam Giao, điện Ngọc Trản (Hòn Chén), miếu Âm Hồn, v.v.. Tuy chưa thăm nhưng nghe tên không mấy lạ, nhưng lần đầu nghe tên chùa Ba Đồn, tôi cứ ngớ ra. Nhiều năm trước, tôi có đến một vùng gọi là Ba Đồn (1) để tìm một cây đa. Ba Đồn ở đấy đúng nghĩa có 3 đồn bót của Pháp ngày trước. Tôi đã cố tìm một vài dấu tích của địa danh này, nhưng tất cả đã bị con người và mưa gió khỏa bằng, chỉ còn tên gọi trong dân gian. Chùa Ba Đồn, chẳng lẽ cũng là nơi có 3 đồn lính? Hỏi qua một vài bạn ở Huế, họ thú thật “nghe rứa chớ biết mô”. Nhưng thật có chùa Ba Đồn không, nhiều người xác nhận có, “Chùa nớ thờ vong người bị Pháp giết trong ngày kinh đô thất thủ năm Ất Dậu. Ông cứ lên đền Nam Giao hỏi người ta chỉ cho”.



Chùa Ba Đồn



Cồn mộ Đồn 3
Trước cổng đền Nam Giao có một nhóm khách Tây đang đợi người mở cửa. Tôi vào một quán bên đường hỏi chùa Ba Đồn, bà quán chỉ ra trước mặt: “Chú tới ngả ba đàng nớ rẽ phải rồi theo đường Tam Thai sẽ qua chùa Ba Đồn, không xa mô”. Ngay bên hông trái của đền Nam Giao có đường Thiên Thai, chạy một đoạn gặp đường Tam Thai, rẽ vào chừng cây số thấy cổng chùa Ba Đồn bên trái. Cổng chùa thật đơn giản, chỉ có hai trụ trơ vơ, bên trái xây một trụ phụ cao chừng 2 mét, đầu trụ gác ngang bảng tên Chùa Ba Đồn. Hai trụ chính có hai câu đối chữ Tàu:

Chinh chiến kỷ năng hồi, linh tích thiên thu bằng thử địa ,
Thân sơ vô dị trí, tâm hương nhất triện vấn thùy nhân .
Dịch nôm của Nguyễn Quan Hà (thân hữu ở San Diego):
Chinh chiến mấy ai về, ngàn thuở dấu thiêng còn khắp chốn,
Xa gần đều kẻ biết, một lòng kính ngưỡng kể bao người .


Con đường từ cổng vào khá rộng, đổ bê tông, sâu hơn trăm mét. Cảnh vắng như tờ, tôi chạy xe tuốt vào Tam Quan. Lúc này mới nghe tiếng chổi quét sân sôt soạt bên hông chùa. Một chị từ trong nhà ngang bước ra vui vẻ tiếp tôi. Tôi hỏi thăm về chùa, chị cho hay: “Chú hỏi bác Nghiêm, bác ấy nắm rất rõ về lịch sử chùa”. Vừa lúc người đàn ông quét sân đi tới, sau phần xã giao chào hỏi, tôi vào đề:
- Thưa bác, trước hết bác có thể giải thích tên chùa? Ba Đồn, thật sự tôi không hiểu, hỏi vài anh em ở Huế họ chỉ nói chung chung.
- Điều này sử sách có ghi, tên Ba Đồn chính là chữ đọc trại ra từ “Tam Đàn Nghĩa Trủng”. Sau khi thống nhất đất nước (1802) qua năm 1803, bắt đầu xây dựng Kinh thành Phú Xuân (Huế), vua Gia Long (1802-1819) cho giải tỏa 8 ngôi làng ở bờ bắc sông Hương. Nhà cửa và mồ mả phải dời đi nơi khác. Những mộ không có người nhận thì nhà nước cho dời lên tại vùng rừng mà ngày nay gọi là Xóm Hành thôn Tứ Tây thuộc xã Thủy An, thành phố Huế. Cồn mồ 8 làng ra đời. Năm Quí Hợi (1803), vua Gia Long cho dựng bia đá (cao 1,51m, rộng 1,110m) với nội dung "Ân Tứ Hiệp Táng Vô Tự Chi Mộ" (Vua cho hợp táng những mộ không người thờ tự). Dòng lạc khoản bên phải đề: "Vị dĩ bách cận thành trì thiên táng tại thử" (Vì lẽ mộ cận thành trì nên dời chôn tại đây). Lạc khoản bên trái ghi: “Tuế thứ Quý Hợi niên tam nguyệt sơ thất nhật phụng khắc” (Kính vâng mệnh khắc ngày 7 tháng 3 năm Quý Hợi, tức là ngày 27-4-1803).
Sau khi di dời mộ các nơi về từng cồn 1 - 2 - 3 thì hàng năm có làm Trai Đàn
tế lễ cô hồn, ba cồn mồ ba Trai Đàn. (2)
- Thưa bác nghe nói chùa Ba Đồn có nhiều chuyện linh thiêng phải không bác?
- Đúng, sau năm 75, một số thanh niên đi làm thủy lợi, tối ở lại cắm trại ngủ trên bãi Đồn 1, nửa đêm họ thấy có người đến đuổi. Các thanh niên này không đi, hôm sau đi làm, người gãy tay, người gãy chân, người bị sốt phải nghỉ việc. Đêm sau lại có người đến đuổi nữa, họ sợ quá, phải chạy vào chùa xin bà mẹ của ông Đinh (người giữ chùa, đời thứ hai) cho ngủ tạm.
Sau khi giải thích về gốc tích chùa Ba Đồn, bác thủ từ đưa tôi vào xem trong nội điện chùa. Tòa nội điện có năm gian hai chái. Bác Nghiêm giải thích cách thờ tự và đọc cho tôi ghi các câu đối trong chùa. Gian giữa thờ Phật, trên cao có tượng Thích Ca, có hoành phi 4 chữ: Từ Bi Vô Lượng, xuống có tượng Ngọc Hoàng Thượng Đế, bên phải có Nam Tào, trái Bắc Đẩu. Có 4 câu đối, hai câu ngoài:

Diệu Pháp nan lường, chúng sanh qui đầu khể thử
Oai linh bất tận toàn nhơn trần hội tường chiêm.


Hai câu bên trong:

Nhứt tộc khởi sùng từ vạn tải linh hồn quân túc tụ
Thập phương đồng hiệp tự ức niên tán phách hiển tinh thần



Câu đối trong chùa

Sau bàn thờ Phật là bàn thờ Hội Đồng các Quan có bài vị: Hàn Lâm Pháp Hội. Các gian kế bên phải thờ: Hương linh anh hùng tuẫn tiết - Thờ Cô hồn – Thờ Hương linh bổn tự.
Các gian kế bên trái thờ: Nam nữ nạn vong – Thờ Phưởng hồn (vong hư sẩy) – Thờ Hương linh các Phổ hội.
Trước sân chánh điện có bàn thờ ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát, và ngài Tiêu Diện Đạo Sĩ. Tiếp là tam quan chùa, bốn trụ có bốn câu đối chữ Tàu, hai câu hai trụ giữa:

Nam quốc trương ngưng vạn hộ thiên gia hàng phú thọ
Thiền môn đại khởi cửu u thập loại tận siêu thăng


Hai câu hai trụ ngoài:

Hắc hải ba đào tuyền nhượng nan mai chung cổ hận
Bạch dương phong vũ anh hồn trường ngự đại từ tâm


Sau lưng chùa có nhà bia “Ân Tứ Hiệp Táng Vô Tự Chi Mộ”. Điều đặc biệt, trên các Đồn (cồn mồ) chỉ mọc độc nhất một loài cỏ chỉ. Một nhà sư bán thế (cư sĩ) làm Phật sự ở vùng này lâu năm giải thích rằng: Các vong linh ở dưới đất, chỉ cho loại cỏ chỉ mọc lên để giữ đất chứ không cho mọc bất cứ một loại cây gì khác. Hiện tại các Đồn đã bị xâm lấn xây cất một số lăng mộ bất hợp pháp (3), chính quyền Huế đã có công văn chỉ đạo ngăn chặn nhưng chưa giải quyết dứt điểm.
Ba Đồn tuy không phải ngôi chùa chính thống thuộc Giáo Hội Phật Giáo, nhưng với lịch sử, với dân gian lại là ngôi chùa linh hiển, một di tích lạ có mười cồn mộ hợp táng lớn nhất nước. Chùa Ba Đồn nằm sau lưng núi Bân (nơi Hoàng Đế Quang Trung lên ngôi năm 1788) và gần Đàn Nam Giao của triều Nguyễn. Nếu có qui hoạch hợp lý thì chùa Ba Đồn kết hợp với Núi Bân - Đàn Nam Giao, thành một quần thể di tích, một khu du lịch hấp dẫn khách. Viếng thăm chùa Ba Đồn không chỉ thuần là vãn cảnh mà còn hiểu sâu hơn về lịch sử nước nhà qua bao nhiêu thời chống ngoại xâm, vạn vạn anh hồn tử sĩ đã hy sinh yên nghỉ nơi này.


Bàn thờ Phật

Vấn đề chính yếu vẫn ở chỗ tôn tạo mà không phá bỏ, không làm mất dấu tích lịch sử, không thừa cơ cắt xén, như bao công trình đã thực hiện xưa nay. Không nên giao sự nghiệp văn hóa cho người không có văn hóa, cũng như sự nghiệp giáo dục không để cho người thiếu giáo dục độc quyền. Được như thế đất nước mỗi ngày sẽ nở thêm hoa, bớt cỏ dại, và bớt đi sự chê cười của người ngoài. Sự nghiệp của ông cha bao đời để lại, con cháu nên cố hết sức gìn giữ tô bồi.


Nhà bia


Cồn mồ Đồn 1 sau lưng chùa

Tháng 8 - 2011

(1) “Cây đa ăn miếu” trang 19 QHQOK tập 3
(2) Sử ghi: Sau khi xây dựng đàn Nam Giao và lăng Gia Long, các mồ vô chủ lại được dời đến tiếp tạo thành hai cồn mồ lớn nữa nằm về phía nam của cồn mồ 8 làng. Cồn mồ 8 làng 3800 mộ(sau thường gọi là Đồn 1) có diện tích 50m x 150m. Ở mỗi cồn mồ đều có dựng bia và có nội dung từa tựa như bia Cồn mồ 8 làng. Riêng bia Cồn mồ thứ hai có lạc khoản bên trái cho biết có 3.700 người an nghỉ ở đây, lạc khoản bên trái bia Cồn mồ thứ ba cho biết có 2250 (Hai bia số 2 và số 3 đã mất từ lâu).
Đến năm 1835, vua Minh Mạng cho lập một bàn thờ ở giữa trời (đàn) tại cồn mồ 8 làng để hằng năm nhà nước tổ chức cúng tế những cô hồn của 8 làng. Về sau cho dựng thêm hai đàn nữa để cúng tế những cô hồn của cồn mồ thứ hai và thứ ba. Dân chúng gọi ba cồn mồ có ba đàn hằng năm tế lễ đó là Cồn mồ Ba Đàn (Ba Đồn). Sau ngày thất thủ Kinh đô (23 tháng 5 Ất dậu, 1885) thực dân Pháp đánh chiếm Huế, dân chúng và binh lính trong Thành chết hàng ngàn người. Lúc đầu người chết được dập hai bên lề đường và ngay trong các vườn nhà chung quanh. Về sau người Pháp "giăng dây thép họa địa đồ nước Nam" bắt dân chúng phải cất bốc hết các mồ mả chôn trong và ngoài Kinh thành. Những mồ vô chủ lại được đưa lên Ba Đồn "hợp táng" hình thành thêm một số Cồn mồ nữa, số cồn mồ mới là:
Cồn mồ thứ tư, nơi an nghỉ của quân lính hy sinh trong Kinh thành Huế ngày 23-5 Ất Dậu (5-7-1885), số lượng không rõ;
Cồn mồ thứ năm, nơi an nghỉ của sĩ quan hy sinh trong Kinh thành Huế ngày 23-5 Ất Dậu (5-7-1885), số lượng không rõ;
Cồn mồ thứ sáu, nơi an nghỉ của thường dân chết trong Kinh thành Huế ngày 23-5 Ất Dậu (5-7-1885), số lượng không rõ;
Từ thời Gia Long, một cái miếu nhỏ được dựng lên để hương khói quanh năm. Cuối thế kỷ XIX, miếu đổ nát, bà Nguyễn Thị Lựu, bà ngoại của vua Thành Thái, bỏ tiền trùng tu.
Khi Miếu Ba Đồn được nhiều người đóng góp tu sửa, các đợt cúng tế cầu xin thần linh độ trì cho Ba Đồn và cầu các cô hồn phù hộ cho bá tánh đều được tổ chức tại miếu Ba Đồn. Từ đó Ba Đồn trở nên rộn rịp. Đến nửa đầu thế kỷ XX, để cầu cho mua may bán đắt, các “phổ” (phường nghề) thợ vàng (Kim Hoàn), Thợ may, Chén bát, Nón lá, Phổ Phước Lợi, Phổ Phú Nhơn trong Kinh Thành ... tự nguyện làm "tín đồ" của miếu và xem miếu Ba Đồn như miếu thờ của các Phổ. Việc thờ cúng tại miếu Ba được các vua từ Minh Mạng đến Duy Tân rất chú trọng. Thời Thành Thái rất thiếu thốn mà lễ vật cúng tế hằng năm ở Ba Đồn gồm có ba con lợn, 15 đấu nếp, 45 chén gạo, 15 chén muối, và các thứ khác như hương đèn, rượu, cau trầu, đồ vàng bạc bằng giấy. Từ đời Thành Thái - Duy Tân mỗi năm chỉ tế lễ vào ngày Thất thủ Kinh đô 23-5 âm lịch. Đối với dân chúng, hằng năm các Phổ tổ chức cúng tế vào ngày 16 tháng Giêng (Minh Niên) và ngày 16 tháng Chạp (Tất niên). Từ sau ngày có thêm ba đồn 4, 5, 6 ngoài việc thờ Thánh, miếu thờ thêm các cô hồn đã mất trong Biến cố 23 tháng 5 Ất dậu, các “Phổ” lại tổ chức lễ cúng âm hồn nữa. Lễ cúng âm hồn kéo dài cả tuần lễ, bắt đầu từ ngày 23 tháng 5 cho đến cuối tháng 5. Các “Phổ” tự chọn ngày tế riêng hoặc hợp tế tùy theo năm. So với các miếu tại Huế và trên toàn quốc, không nơi nào thờ cúng một số lượng cô hồn đông đảo như miếu Ba Đồn. Do đó dân chúng nghĩ miếu Ba Đồn là rất linh thiêng. Miếu Ba Đồn trở thành nơi bói xăm của bá tánh. Người đoán xăm là người có ăn học, phần lớn là các nhà sư bán thế. Do yêu cầu của thực tế, hằng ngày tại miếu có một nhà sư đoán xăm. Do sự có mặt của các nhà sư, miếu Ba Đồn rước thêm Phật về thờ. Miếu Ba Đồn có Phật, có sư dần dần trở thành chùa Ba Đồn đã 200 năm, tuy nhiên cho đến nay, chùa Ba Đồn cũng không có trụ trì và chưa bao giờ được Giáo Hội Phật Giáo công nhận. Vị sư bán thế đoán xăm nổi tiếng của chùa Ba Đồn là ông Mật Giải - em ruột Hòa Thượng Bích Phong (1900-1968), trụ trì chùa Quy Thiện (ở gần chùa Ba Đồn). Ông Mật Giải qua đời năm 1986 sau 45 năm gắn bó với chùa Ba Đồn.
(3) Dư luận cho rằng từ năm 1998, có người đem đất chùa chia lô bán cho tư nhân xây lăng mộ. Đến nay đã có hơn 300 mộ xây trái phép trên diện tích gần 8.000 m2, ngoài ra 5.000 m2 đất ở khu vực đường vào chùa, xung quanh chùa đã bị bán xây khuôn viên để dành.
Sách đã in: Quê Hương Qua Ống Kính tập 1 đến tập 12, Buồn Vui Nghề Chơi Cây Kiểng, Mùa Nước Lũ (Truyện), Về Nhiếp Ảnh, Thăng Trầm (chuyện buồn vui một đời người), sách dày trên 200 trang, có 8 phụ bản ảnh màu và cả trăm ảnh đen trắng.
Độc giả muốn có sách nguyên bộ 12 tập (discount), xin liên lạc:
Tòa soạn Nhật Báo Viễn Đông, 14891 Moran Street, Westminter, CA 92683. Điện thoại: 714-379-2851.
Những sách khác, liên lạc tác giả qua P.O. Box 254, Lawndale, CA 90260. Website: www.ltcn.net

Nguồn: http://www.viendongdaily.com/chua-ba-don-HTYYu4YL.html
Bài và Ảnh: Trần Công Nhung/Viễn Đông
source
Vien Dong Daily