Saturday 30 January 2010

Hiệu trưởng Sầm Đức Xương bị tố cáo mua dâm cả chục nữ sinh vị thành niên


Cập nhật lúc: 1/30/2010 10:15:07 PM
Xã hội loạn: Hiệu trưởng làm tình nói bất lực, nhưng các nữ sinh bị lợi dụng khai một đường dây mua dâm lên tận tỉnh (...)

Còn đâu “đạo đức xã hội (...)”? Hiệu trưởng Sầm Đức Xương bị tố cáo mua dâm cả chục nữ sinh vị thành niên. Ảnh Hoàng Anh/ VnExpress

Ngày 11.9.2009, hiệu trưởng trường trung học phổ thông Việt Lâm ở tỉnh Hà Giang, ông Sầm Đức Xương, 53 tuổi, bị bắt do các phụ huynh tố cáo mua dâm các nữ sinh trong trường. Hai cựu nữ sinh lớp 12 sau đó bị bắt về tội làm môi giới. Nhưng từ đấy, xảy ra nhiều chuyện động trời liên quan đến nhiều quan chức cao cấp trong tỉnh bạn của ông hiệu trưởng mua dâm nữ sinh. Một “danh sách đen” các VIP mua dâm đã được gởi tới cơ quan kiểm tra tỉnh ủy.

Khác với phiên tòa xứ 4 nhà hoạt động chính trị kéo dài chỉ một ngày cách đấy khoảng một tuần lễ, phiên tòa chung thẩm về chuyện mua bán dâm kéo dài 3 ngày mà vẫn chưa xong. Tòa được nghe nhiều chuyện động trời. Hội đồng Xét xử sẽ đưa ra bản án đầu tuần tới.

Vào tháng 11 năm 2009, trong phiên tòa xử kín, hiệu trưởng Sầm Đức Xương bị phạt 10 năm rưỡi tù. Nữ sinh Nguyễn Thị Hằng bị phạt 6 năm tù và Nguyễn Thanh Thúy 5 năm tù. Nhưng tất cả đều kêu oan.

Trong phiên xử chung thẩm trong tuần này, các bị can đã khai nhiều chuyện khiến ông Lê Quang Triều, chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy phải nói “tôi choáng khi nhận tố cáo nhiều cán bộ mua dâm”.

Hôm 28.1.2010, đứng trước tòa, ông cựu hiệu trưởng phản cung nói những lời khai trước đây là không đúng, rằng trong mấy năm qua ông bị bất lực thì làm sao mua dâm với các nữ sinh. Ông còn tuyên bố nếu cần, ông sẽ “chuổng cời” trước tòa để chứng minh sự bất lực của ông.

Trong khi đó, hai cô cựu nữ sinh nói vì sợ lưu ban nên đã để cho thầy làm tình hầu thầy cho điểm cao. Các cô còn nói thầy bảo đi kiếm các nữ sinh bán dâm cho thầy và các bạn của thầy ở trên tỉnh, người nào còn trinh được trả với giá cao. Trước tòa hai cô cựu nữ sinh còn kể tên và điện thoại của những cán bộ cao cấp đã mua dâm.

Hằng (áo vàng) và Thúy tại phiên xứ sáng 27.1.2010. Ảnh Tuấn Anh/ VnExpress

Câu chuyện mua dâm của ông hiệu trưởng với sự tham gia của các quan lớn trong tỉnh trở thành một xì căng đan lớn, được xử kéo dài nhiều ngày và báo chí đưa tin tới tấp.

Theo báo Dân Trí, vào ngày 28.1.2010, trả lời thẩm vấn tại phiên tòa, bị cáo Xương một mực kêu oan và đưa ra hàng loạt lý do như bị bệnh tiểu đường, bị đau cột sống nên... không còn khả năng quan hệ tình dục từ 3 năm nay. Thậm chí, bị cáo Xương còn đề nghị được... kiểm tra để khẳng định lời khai của mình là đúng.

Bị cáo khẳng định mình không được đối chất với những bị hại để làm rõ vấn đề, do vậy những lá đơn tố cáo của Hằng, Thúy là không chính xác. Bị cáo 53 tuổi này cho rằng, là một nhà giáo có thâm niên làm việc hơn 30 năm, sắp nghỉ hưu thì làm sao bị cáo có thể làm chuyện... ô uế như thế được (?).

Ngoài ra, tất cả những lời khai tại bản khai cung đầu tiên tại phiên sơ thẩm chỉ có... 10% là lời khai của bị cáo. “Bản cung đó 90% là của điều tra viên, còn 10% bị cáo thêm vào cho... xong vì lúc đó đã gần sáng và do bị cáo đã quá mệt”, Sầm Đức Xương khai.

Chủ toạ phiên tòa đã công bố bản tường trình khác được ông Xương xác nhận đúng là chữ ký của mình. Trong bản tường trình này, bị cáo Xương đã thừa nhận hành vi quan hệ tình dục với 2 bị cáo Thuý, Hằng và 2 nữ sinh khác. Trong đó, bị cáo Xương đã thừa nhận quan hệ tình dục với một nữ sinh 3 lần và cặp bồ với cô này.

HĐXX đã cho bị cáo Xương đối chất với 2 bị cáo Hằng và Thúy.

Trước tòa, cả 3 bị cáo từng là thầy trò đã phản bác nhau rất gay gắt. Hai bị cáo Hằng và Thúy cho rằng, bị cáo Xương đã từng quan hệ với 2 bị cáo nữ này đến 7 lần. Ngoài ra, 2 bị cáo nữ đã khẳng định thêm việc bị cáo Xương còn quan hệ với rất nhiều nữ sinh khác nữa trong trường PTTH Việt Lâm. Tuy nhiên, bị cáo Xương vẫn một mực kêu oan và phủ nhận hoàn toàn sự việc.

Các cựu nữ sinh nức nở khi bị đưa lên xe sau phiên xử hôm 29.1.2010. Ảnh Hoàng Anh/ VnExpre

Cũng theo báo Dân Trí, trả lời thẩm vấn của HĐXX, bị cáo Nguyễn Thị Hằng cho biết, không chỉ quan hệ tình dục với ông Sầm Đức Xương mà đã từng “lên giường” với nhiều người đàn ông khác theo sự “chỉ đạo” của bị cáo Xương. Trong đó, có một số người mà bị cáo này biết rõ vì họ có vị thế tại tỉnh Hà Giang

Bị cáo Hằng cho biết, khoảng từ tháng 6 đến tháng 9/2009, đã quan hệ tình dục với một số người. Cụ thể, tháng 6/2009 bị cáo “lên giường” với một người đàn ông làm việc trong một ngành quan trọng ở tỉnh. Chi tiết hơn, Hằng kể, đã đi taxi từ chi nhánh ngân hàng phường Minh Khai (Thị xã Hà Giang) đến khách sạn T. Sau khi “quan hệ”, bị cáo nhận từ người đàn ông này trên 1.000.000 đồng (loại tiền 100.000đồng).

Đến 21/6, bị cáo này đi ăn cơm cùng với ông B. và một người đàn ông làm ở một cơ quan “quyền lực” tỉnh Hà Giang nhân dịp sinh nhật của ông B và được gợi ý “lên giường” với vị này. Cả hai cùng đi ô tô của ông này đến khách sạn để quan hệ tình dục.

Ngoài ra, bị cáo Hằng còn nhớ rất rõ cả ngày tháng và thời gian bị cáo đi bán dâm và nhận số tiền 1.500.000 đồng và 5.000.000 đồng sau khi “lên giường” với số nhân vật có vị thế tại tỉnh Hà Giang.


Trong phần trả lời thẩm vấn của mình, bị cáo Nguyễn Thị Thanh Thúy khai, lần đầu bán dâm cho ông Xương là khoảng tháng 9/2008 khi đang học lớp 12. Trước đó, ông Xương liên lạc với bị cáo bằng máy điện thoại bàn từ phòng làm việc.

Sau đó, bị cáo Xương yêu cầu Thúy tìm những học sinh khác có nhu cầu bán dâm để “giới thiệu” cho thầy. Từ đó, đã có thêm 4 nữ sinh được “giới thiệu” và quan hệ với ông Xương ở nhiều khách sạn khác nhau.

Tại phiên toà, bị cáo Thúy kêu oan khi bị kết tội “Môi giới mại dâm” và xin thay đổi lời khai.

Cũng theo báo Dân Trí, liên quan đến “Danh sách đen” mà 2 bị cáo Thúy và Hằng “tố” có tên một cán bộ đang công tác tại Bưu điện tỉnh Hà Giang.

Ông Đinh Văn Dũng - Giám đốc Bưu điện tỉnh cho biết: “Ngay khi tiếp nhận thông tin, chúng tôi sẽ cho kiểm tra để xác minh và sẽ có hình thức xử lý theo qui định nếu đúngg là cán bộ vi phạm”.

Trao đối với PV Dân trí vào sáng 29/1 về việc trong “Danh sách đen” cũng có tên một cán bộ trong ngành công an, Thượng tá Hầu Văn Lý - Phó giám đốc Công an tỉnh Hà Giang khẳng định: “Đến thời điểm này, phía công an tỉnh Hà Giang chưa tiếp nhận được đơn kiến nghị cũng như “Danh sách đen” nào. Nếu nhận được đơn thì chúng tôi sẽ chuyển sang cơ quan CSĐT để xem xét xử lý theo qui định pháp luật”.

source

TiVi Tuan San

Nhiều quý ông bị tố trong vụ hiệu trưởng mua dâm nữ sinh

Danh tính cùng số điện thoại của một số người đàn ông có địa vị bị hai thiếu nữ - can phạm trong vụ hiệu trưởng mua dâm nữ sinh ở Hà Giang - tố cáo trong đơn gửi tới các cơ quan chức năng, một tuần trước khi diễn ra phiên phúc thẩm.
> Hiệu trưởng mua dâm nữ sinh lĩnh án /'Hiệu trưởng mua dâm nữ sinh bước đầu đã nhận tội'

3 bị cáo bị dẫn giải trong phiên phúc thẩm ngày 20/1. Ảnh: P.V.

Trong lá đơn kêu cứu viết ngay ngắn thẳng hàng, Nguyễn Thị Hằng (19 tuổi) và Nguyễn Thị Thanh Thúy (18 tuổi) đã ghi lại danh tính của 9 người được cho là khách quen mua dâm với mình, sau nhiều tháng hai cô sống trong trại tạm giam.

Luật sư Trần Đình Triển (Trưởng văn phòng luật sư Vì Dân, Hà Nội) cho biết, ngay sau khi phiên phúc thẩm bị hoãn ngày 20/1, Thúy và Hằng khẩn nài được gặp ông và nhờ chuyển đơn kêu cứu tới các cơ quan chức năng.

Trong lá đơn đề ngày 20/1 viết trước mặt luật sư, Thúy cho biết cô bị ép trở thành "nô lệ tình dục" của hiệu trưởng trường THPT Việt Lâm Sầm Đức Xương. "Thầy Xương đe dọa sẽ hạ thấp kết quả học tập, ép chúng cháu quan hệ tình dục với thầy. Từ đó, thầy bắt chúng cháu quan hệ tình dục với một số bạn bè của thầy", cô gái viết nét chữ mềm mại.

Hai cô gái tố cáo đã phải "lên giường" với nhiều người tới mức "không thể nhớ xuể". Nhưng có một số đàn ông Hằng và Thúy cho rằng, do phải thường xuyên "phục vụ" nên không thể quên. Hằng cho biết: "Tất cả những ông này khi quan hệ tình dục đều trả tiền cho cháu".

Trả lời câu hỏi của VnExpress.net về độ tin cậy của những thông tin trên, ông Triển nói: "Hằng kể cho tôi thời gian, địa chỉ nơi một số lần các cháu quan hệ tình dục với những người này. Số điện thoại, số xe... của họ, các cháu cũng nhớ".

Theo quan điểm của ông Triển, Hằng, Thúy cũng như 15 cô gái (13-17 tuổi) đều là nạn nhân trong vụ án này. "Các cháu bị cưỡng ép, dụ dỗ, khống chế buộc phải quan hệ tình dục hoặc lôi kéo người khác "phục vụ" cho nhóm người của ông Xương", luật sư đánh giá.

Sáng 26/1, trao đổi qua điện thoại, thiếu tướng Nguyễn Bình Vận (Giám đốc Công an tỉnh Hà Giang) cho biết, ông chưa nghe thông tin về việc một số người bị tố cáo mua dâm nữ sinh.

"Nếu nắm được danh sách, tôi sẽ chỉ đạo làm rõ. Giả sử đúng sự thật thì việc điều tra sẽ không gặp khó khăn, cho dù người bị tố cáo là ai", người đứng đầu ngành công an Hà Giang khẳng định với VnExpress.net.

Luật sư Triển cho biết, chiều qua đơn kiến nghị của luật sư kèm với 2 đơn tố cáo của Hằng và Thúy đã được gửi tới nhiều lãnh đạo, các cơ quan trung ương, Ủy ban tư pháp Quốc hội, cùng chính quyền tỉnh Hà Giang...

Theo luật sư, ông phát hiện quá trình điều tra vụ án còn có nhiều khuất tất và vi phạm thủ tục tố tụng. Những vấn đề trên sẽ được vị tiến sĩ luật học (bào chữa miễn phí cho Thúy) trình bày trong phiên phúc thẩm dự kiến mở lại ngày 27/1.

Đầu tháng 9/2009, hành vi mua dâm học sinh của hiệu trưởng Xương bị một số phụ huynh phát giác.

Chiều 11/9/2009, sau khi ông Xương bị bắt, Hằng và Thúy bị xác định có liên quan vụ việc.

Tháng 11/2009, trong phiên xử kín, ông Xương bị kết án 10 năm 6 tháng tù về hành vi mua dâm nhiều lần với trẻ vị thành niên.

Hằng và Thúy (vừa tốt nghiệp THPT Việt Lâm) bị xác định có vai trò môi giới, lần lượt nhận 6 và 5 năm tù.

Hoàng Anh - Hoàng Khuê

source

http://www.vnexpress.net/GL/Phap-luat/2010/01/3BA1821B/


Monday 25 January 2010

Phận đời của phụ nữ Việt lấy chồng Trung Quốc phi pháp



Cập nhật lúc 10:11, Thứ Ba, 26/01/2010 (GMT+7)
,

Gần đây một số phóng viên tờ “Tân khoái báo”(CHND Trung Hoa) đã tới Thanh Viễn, Quảng Đông điều tra, phát hiện thấy một số vùng núi xa xôi hẻo lánh thuộc thành phố này có khá nhiều phụ nữ Việt Nam di dân tới ở.

Những người phụ nữ nghèo, ít học là đối tượng dễ bị lừa bán sang Trung Quốc. (Ảnh minh họa: achr.vn)

Theo giới thiệu của quan chức Phòng Dân chính huyện Thanh Tân, thành phố Thanh Viễn thì cho đến hiện nay, ít nhất đã có tới hàng trăm phụ nữ Việt Nam “được gả” tới huyện này và đã sinh con đẻ cái. Các khu vực miền núi xa xôi khác của Quảng Đông như Thiều Quan, Mai Châu…, thậm chí tại các miền núi xa xôi của Quảng Tây cũng có hiện tượng tương tự.

Người phụ trách Phòng Dân chính huyện Thanh Tân cho rằng hiện tượng phụ nữ Việt Nam nhập cảnh phi pháp, kết hôn phi pháp với đàn ông trong nước là nghiêm trọng, hiện nay chính quyền phối hợp cùng các ngành liên quan tiến hành giám sát, quản lý người nước ngoài đã nhập cảnh, nhưng “tất cả những cái đó dường như không có hiệu quả”.

Không thể kiểm soát

Huyện Thanh Tân là một trong một trăm huyện trọng điểm được giúp đỡ xóa đói giảm nghèo trong cả nước. Theo điều tra của các phóng viên, từ năm 1992 đã có một số phụ nữ Việt Nam, thông qua môi giới phi pháp, tới vùng miền núi xa xôi của huyện này để kết hôn với đàn ông bản địa lớn tuổi và sau đó đã sinh con đẻ cái.

Hà Trác Phi, người phụ trách Trung tâm Đăng ký kết hôn Phòng Dân chính huyện cho biết, hiện nay dự đoán có tới mấy trăm phụ nữ Việt Nam có cuộc “hôn nhân xuyên quốc gia” với đàn ông bản địa, mà phần lớn trong bọn họ là vào Trung Quốc không thông qua con đường bình thường.

“Ba năm gần đây, đã có một số đàn ông bản địa “cưới” phụ nữ Việt Nam đến Phòng Dân chính đăng ký kết hôn, nhưng cuối cùng không thành công”, Hà Trác Phi nói, "bởi vì luật pháp Trung Quốc hiện hành không cho phép họ đăng ký kết hôn". Tuy vậy về căn bản cũng chẳng có biện pháp gì ngăn chặn được hiện tượng này phát triển.

“Từ năm 1992 đến năm 2002 là thời kỳ phụ nữ Việt Nam nhập cảnh phi pháp vào lấy đàn ông bản địa rồi sinh con đẻ cái nhiều nhất”, Hà Trác Phi cho biết. Một trong những lý do là giữa Quảng Tây và Việt Nam có một khu mậu dịch tự do, người Việt có thể tự do ra vào Trung Quốc nên chính quyền rất khó quản lý.

“Quản lý và giám sát cũng không giải quyết được hiện tượng hôn nhân siêu quốc gia phi pháp giữa đàn ông bản địa với phụ nữ Việt Nam, bởi vì ở những vùng núi xa xôi đó về căn bản chính quyền quản không nổi”, một quan chức địa phương nói một cách ngượng ngập.

Vì nghèo, nam phải mua vợ, nữ phải ra đi

Hà Trác Phi nói: “Những địa phương phát sinh hôn nhân phi pháp phần lớn là vùng miền núi xa xôi, nghèo nàn, tại đó đàn ông rất nghèo, không có trình độ văn hóa gì, rất khó kiếm được vợ địa phương, có một số đàn ông dường như độc thân suốt đời”. Theo lời Hà Trác Phi thì con gái địa phương đều muốn chạy đi nơi khác, tạo nên hiện tượng mất cân đối tỷ lệ nam, nữ tại chỗ, và phụ nữ Việt Nam nhập cảnh phi pháp đã tạo cơ hội để số đàn ông này giải quyết vấn đề lấy vợ.

Trình độ tri thức thấp kém, ý thức pháp luật mờ nhạt là “đặc điểm chung” của những người đàn ông (Trung Quốc) bỏ tiền ra “cưới” phụ nữ Việt Nam. Theo giới thiệu của một quan chức huyện này thì chính quyền địa phương đã không ngừng đả kích những vụ cưới phụ nữ Việt Nam phi pháp, nhưng rất nhiều người không biết đó là hành vi phi pháp. “Thậm chí có khi lấy vợ Việt Nam mang về giấu đi, đợi đến khi có con mới công khai”. Một điều nữa khiến các cơ quan thi hành pháp luật khó làm là hơn 10 năm nay, chính quyền địa phương không hề nhận được bất kỳ tố cáo nào của dân chúng.

So sánh với những người đàn ông nghèo nàn tại vùng miền núi xa xôi Trung Quốc, đời sống của đại bộ phận phụ nữ Việt Nam nhập cảnh phi pháp còn nghèo nàn hơn.

Những số phận may mắn hiếm hoi

Bà Nguyễn Kim Phượng năm nay hơn 40 tuổi bị tổ chức “mẹ mìn” bán cho một người đàn ông nghèo ở Thanh Viễn, Quảng Đông lớn hơn mình 13 tuổi đã từ chỗ không ưa thích tới ưa thích, đã từ chỗ không thích ứng đến chỗ không bỏ được. Bà đã sống ở thôn Hạ Kinh, trấn Hòa Vân, huyện miền núi Thanh Tân 17 năm và có 3 ngưòi con gái. Không có giấy chứng nhận kết hôn, thậm chí ngay đến chứng minh thư cũng không có, nhưng bà đã coi nơi đây là nhà mình. Chỉ tiếc là cho đến nay bà vẫn không có hộ khẩu Trung Quốc!

Bà cho biết, trước khi sang Trung Quốc bà sống tại một huyện nhỏ thuộc thành phố Hà Nội, sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở, bà ở nhà bán hàng tạp phẩm, năm 24 tuổi bị người rủ đi làm xa, nhưng thực chất là bị lừa bán sang Trung Quốc. Trần Kỷ Tường, chồng bà Phượng nhớ lại, năm 1992 khi gặp bà Phượng ông đã 35 tuổi, “nhà rất nghèo, không cưới nổi vợ, có người giới thiệu có một phụ nữ Việt Nam chỉ cần bỏ ra 3000NDT là có thể lấy về làm vợ, sau khi mặc cả ngã giá là 2500 NDT”. Trần Kỷ Tường đang rất muốn lấy vợ, sau khi thấy Nguyễn Kim Phượng, trẻ trung xinh đẹp đã hạ quyết tâm vay họ hàng 2000 NDT cộng với 500 NDT tiền để dành nhiều năm của mình mua được Nguyễn Kim Phượng về.

Từ đó, hai vợ chồng chung sống hòa thuận, ngoài việc làm nông ra còn mở một cửa hàng nhỏ nên đời sống vật chất cũng dễ chịu. Họ đã có với nhau 3 người con gái, đứa lớn đã 16 tuổi đang học lớp 10 trung học phổ thông, đứa thứ hai 15 tuổi đang học trung học cơ sở, còn cô út năm nay 13 tuổi đang học lớp 5 tiểu học.

17 năm qua bà Phượng đã về thăm quê 3 lần (có lần có cả chồng, con cùng đi). Ông anh trai bà cũng đến thăm em gái 2 lần qua đường du lịch. Khi phóng viên hỏi gia đình ở Việt Nam có cần bà gửi tiền về hay không, bà Phượng đã nói, mẹ và anh trai tôi hiện nay sống ở nội thành, điều kiện tốt hơn tôi nhiều. Có lần tôi muốn gửi tiền cho mẹ nhưng rốt cuộc lại thành mẹ gửi tiền cho tôi.

Nguyện vọng tha thiết của bà Phượng là được có hộ khẩu Trung Quốc (3 cô con gái của bà với Trần Kỷ Tường đã có rồi) bởi vì bà có nguyện vọng ở đây mãi mãi với gia đình của mình.

Một người phụ nữ Việt Nam nữa đang sống ở huyện Thanh Tân, Thanh Viễn tên là Hoàng Vỹ Trân, được dân địa phương gọi là “bà hoàng bán lạc”. Hoàng Vỹ Trân sống cùng chồng, con ở trong một căn phòng rộng chưa tới 15m2 nhưng có gác phụ, có TV và môtô... Khi phóng viên hỏi: “bà có muốn về Việt Nam không?” bà đã trả lời: “Chồng tôi không đánh tôi, đối xử với tôi rất tốt, hơn nữa hai đứa con trai cũng cũng đã lớn, nên tôi chẳng muốn về, tuy vậy rất nhớ nhà”.

15 năm qua, Hoàng Vỹ Trân đã về quê hai lần, lần gần đây nhất là vào tháng 6 năm 2007, “lần về đó mang theo 1500 NDT, bố mẹ tôi mừng lắm”.

Khi được hỏi “vì sao không tính đến chuyện lấy chồng tại Việt Nam, Hoàng Vỹ Trân đã trả lời: “bên chúng tôi nghèo lắm, chỉ có làm ruộng, cấy trồng được bao nhiêu ăn hết bấy nhiêu, ngoài ra không có thu nhập gì”.

Tuy nhiên, trong số hàng trăm, hàng nghìn số phận đau khổ của phụ nữ Việt Nam bị bắt cóc bán sang biên giới làm vợ xứ người, chỉ rất ít người được thần may mắn mỉm cười như hai trường hợp trên. Họ đã và đang sống bất hợp pháp ở Trung Quốc nhiều năm và cuộc hôn nhân của họ cũng không được pháp luật bảo vệ. Điều gì sẽ xảy ra nếu chính quyền Trung Quốc quyết định xử lý những trường hợp này?

  • Dương Danh Dy (giới thiệu)
  • source
  • http://vietnamnet.vn/thegioi/201001/Phan-doi-cua-phu-nu-Viet-lay-chong-Trung-Quoc-phi-phap-891537/

Thursday 21 January 2010

Ngày mất Hoàng Sa



Cập nhật: 08:01 GMT - thứ ba, 19 tháng 1, 2010

Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại

36 năm trước, Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại đã ra lệnh khai hỏa trước.

Ngày 19/1/1974 sau một cuộc hải chiến ngắn ngủi, hải quân Trung Quốc đã chiếm quần đảo Hoàng Sa, khi ấy do Việt Nam Cộng Hòa tuyên bố chủ quyền.

Ông Hồ Văn Kỳ Thoại, cựu Phó Đề đốc hải quân Việt Nam CH, nguyên Tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải là một trong các chỉ huy tham dự trận đánh.

Ông Hồ Văn Kỳ Thoại: Vài ngày trước ngày 19/1, chúng tôi chịu trách nhiệm bảo vệ Vùng 1 Duyên hải, kể cả các hải đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa.

Chúng tôi thấy xuất hiện những sinh hoạt bất thường trên đảo. Trong các đảo thuộc chủ quyền VN thì đảo Hoàng Sa (Pattle) có người ở. Trên đảo có đài khí tượng và một đại đội lính đồn trú.

Những đảo kia thuộc quyền kiểm soát của VNCH, và không có quân. Khi thấy xuất hiện một số sinh hoạt khác thường trên đảo, chúng tôi cử người nhái và biệt hải lên thăm dò thì thấy quân nhân lạ và những chiếc tàu đánh cá có võ trang xuất hiện xung quanh.

Chúng tôi cư xử ôn hòa mời họ ra khỏi đảo. Tuy nhiên tàu lạ có hành động khiêu khích. Được sự đồng ý của tổng thống, chúng tôi dùng vũ lực để mời họ ra.

Trận hải chiến xảy ra vào lúc 10 giờ sáng ngày 19 tháng Giêng. Sự thiệt hại của hai bên coi như bằng nhau. Chúng tôi có tất cả 58 sĩ quan và thủy thủ đã bỏ mình trên chiến hạm, kể cả hai người nhái trên đất liền.

Tàu Nhật Tảo của hải quân VNCH

Hộ tống hạm Nhật Tảo đã bị đánh chìm trong trận chiến.

BBC: Là sĩ quan, và đồng thời là người lính tham chiến, cảm nghĩ của ông thời gian đó như thế nào sau khi bị mất đảo?

Ông Hồ Văn Kỳ Thoại: Bây giờ nhìn lại, thấy rõ ràng năm 1973 khi Hoa Kỳ bắt đầu rút khỏi Việt Nam, thì quân lực Việt Nam Cộng Hòa chiến đấu đơn độc không có sự hỗ trợ của đồng minh.

Hoa Kỳ vốn là đồng minh trợ giúp nhiều nhất thì đã rút khỏi Việt Nam. Lúc đó miền Nam lại đang vướng vào cuộc chiến với (...), thành ra chúng tôi không có đủ quân để giữ những hải đảo đó.

Tuy số quân hai bên không khác nhau nhiều nhưng chiến hạm của Trung Quốc tối tân hơn của VNCH. Chúng tôi quyết định rút lui khi cố vấn Hoa Kỳ cho biết 17 chiến hạm của TQ đang trên đường tới khu vực và khả năng sẽ có phi cơ phản lực tới từ đảo Hải Nam.

Hạm đội 7 của Hoa Kỳ ở gần đó đã không trợ giúp, ngay cả khi chúng tôi cầu cứu.

BBC: Hiện nay (...) và Trung Quốc đang vướng vào tranh chấp về biển đảo, trong đó có Trường Sa. Lúc này (...) không nằm trong liên minh quân sự nào, không có hậu thuẫn của một thế lực hay cường quốc nào. Ông có lo sợ trong tương lai sẽ xảy ra các cuộc hải chiến như vậy không, và có khả năng (...) sẽ mất đảo?

Ông Hồ Văn Kỳ Thoại: Theo tôi nghĩ, chuyện đó có thể xảy ra bất kỳ lúc nào, vì (...) là quốc gia nhỏ bé trong vùng. Chuyện liên hệ quá gần gũi với Trung Quốc cũng có mặt dở của nó, đó là TQ hay lấn tới, có những hành động mà (...) không nói gì được. Trung Quốc đâu có đụng các quốc gia khác ở vùng này như vậy đâu.

Tôi nghĩ sự đe dọa có thể xảy ra bất kỳ lúc nào. Nếu chính phủ (...) không có thái độ thật mạnh hoặc dứt khoát, chuyện mất đảo vẫn có thể tiếp tục. Không chỉ đảo xa mà còn đến những đảo gần hơn nữa.

BBC: So sánh về tương quan lực lượng giữa hải quân của hai nước, liệu có thể ví một bên là chàng khổng lồ, con bên kia là người tí hon được không, thưa ông?

Ông Hồ Văn Kỳ Thoại: Theo tôi nghĩ chuyện tương quan lực lượng không thể đặt ra được vì hải quân TQ rất mạnh. Họ có rất nhiều tàu chiến, nhất là về phương diện tàu ngầm.

Còn hải quân (...), tuy có sự cố gắng nhưng không bao giờ có được những chiến hạm để đối phó với hải quân của một cường quốc như TQ. Nếu đụng độ giữa hai hải quân, tôi nghĩ hải quân (...) không thể đương đầu nổi.

source

BBC Vietnamese

**********************************************

19.1.1974: “Hoàng Sa - tường trình 36 năm sau”

Quân đồn trú Pháp-Việt chào cờ trên đảo Hoàng Sa (trái) và ông Nguyễn Văn Đức

LTS: Ngày 19.1.2010 là ngày kỷ niệm đúng 36 năm Hải quân Việt Nam Cộng Hòa anh dũng chống lại cuộc xâm lăng của hải quân Trung Cộng.

Lúc đó VNCH phải đối diện một lúc với hai kẻ thù, (...) và Trung Cộng. Đồng minh Hoa Kỳ muốn phủi tay nên chỉ làm kẻ bàng quan. (...) vì mang ơn và mắc nợ của đàn anh Trung Cộng, đã không có một lời phản đối khi quần đảo Hoàng Sa rơi vào tay kẻ thù phương bắc trong trận hải chiến ngày 19.1.1974.

Đến nay, trước việc Bắc Kinh tiến công và tiến chiếm liên tục lãnh hải và lãnh thổ của (...) ở Biển Đông, và nhất là qua sự phản đối và tức giận của những tầng lớp yêu nước ở quốc nội và hải ngoại, (...) mới bắt đầu lên tiếng, nhưng vẫn còn yếu ớt, vì Bắc Kinh và chế độ (...) vẫn còn là chỗ dựa của tập đoàn lãnh đạo ở (...).

Tháng 9 năm ngoái, báo Tuổi Trẻ đã đi một loạt bài nói sự chiến đấu của hải quân VNCH trước kẻ thù xâm lược Bắc Kinh, qua lời kể của những cựu binh sĩ VNCH như ông Nguyễn Văn Đức hay Lữ Công Bảy, với tựa đề “Hoàng Sa - tường trình 35 năm sau” với những lời giới thiệu như sau:

“Hơn 35 năm trước, những người con đất Việt đã nhận lệnh vượt trùng dương ra quần đảo Hoàng Sa canh giữ biển trời Tổ quốc. Họ tự hào ra đi trong tâm thế của người Việt ra canh giữ đảo biển của người Việt! Bây giờ nhắc lại, mắt họ rưng rưng, tim họ nghẹn lại khi Hoàng Sa vẫn còn trong tay nước ngoài. Từ số báo này, Tuổi Trẻ đăng tải hồi ức của những người từng canh giữ biển trời Hoàng Sa 35 năm trước. Thời gian dài trôi qua, nhưng những gì tận mắt họ chứng kiến, những gì họ trực tiếp tham gia không thể phai mờ trong tâm trí”.

Nhưng tờ Tuổi Trẻ chỉ đăng được 3 bài trong 3 số báo thì đã (...) ngưng mà không có một lời giải thích. Điều này chứng tỏ (...) vẫn còn sợ bóng sợ vía người anh Bắc Kinh nên phải (...) Tuổi Trẻ.

Để tưởng niệm trận chiến này, TVTS cho đăng lại 3 bài viết đăng đăng trên báo Tuổi Trẻ, giữ nguyên văn.

Tờ sự vụ lệnh quyết định điều chuẩn úy Nguyễn Văn Đức làm đảo trưởng Hoàng Sa tháng 10-1969 trong đợt thay quân thứ 38 của quân đội chính quyền Sài Gòn tại Hoàng Sa. Ảnh: Thế Anh

Kỳ 1: Hoàng Sa trong ký ức một đảo trưởng

Cách nay đúng 40 năm, ông Nguyễn Văn Đức đã cùng các cộng sự vượt trùng dương đến với Hoàng Sa. Nhiệm vụ của ông là canh giữ biển trời Tổ quốc với chức vụ là đảo trưởng theo lệnh của Bộ chỉ huy biệt khu Quảng Đà. Lúc đó ông vừa tròn 22 tuổi, là một trong những đảo trưởng trẻ nhất từng làm nhiệm vụ trấn giữ tại quần đảo Hoàng Sa.

1. Mái đầu ông Nguyễn Văn Đức đã điểm muối tiêu của tuổi ngoài 60. Hỏi ngày nào đáng nhớ trong cuộc đời của mình, ông trả lời không chút đắn đo: “Đó là ngày 14-10-1969, tôi nhận được tờ sự vụ lệnh biên chế về trung đội Hoàng Sa ra đảo làm nhiệm vụ dưới chức danh đảo trưởng”.

Buột miệng hỏi ông về những lo lắng trước lúc lên đường làm nhiệm vụ, ông phản ứng: “Tại sao phải lo lắng? Đó là đất của cha ông mình để lại, là máu mủ thân yêu của Tổ quốc nên chúng tôi ra đi như lẽ bình thường, hiển nhiên. Chẳng có chút gì phải lo sợ khi chúng tôi đi trong tâm thế của một người Việt ra canh giữ đảo biển của người Việt! Khi đó quần đảo Hoàng Sa thuộc quyền kiểm soát của chính quyền Sài Gòn, thuộc về người Việt, đó là sự thật lịch sử không thể chối cãi”.

Một ngày cuối tháng 10-1969, ông Đức cùng trung đội Hoàng Sa gồm 34 người và bốn nhân viên khí tượng rời cảng Tiên Sa (Đà Nẵng) lên đường làm nhiệm vụ. Sau hơn 24 giờ lênh đênh trên biển, Hoàng Sa thân yêu hiện dần lên trước mắt ông.

Ông Đức nhớ lại: “Lúc đầu biển khá êm, nhưng khi rời đất liền được khoảng hơn 100km thì sóng lớn dần. Từ xa Hoàng Sa hiện lên giữa nền xanh của đại dương. Bao bọc quanh Hoàng Sa là những rạn san hô rộng lớn, vì thế chúng tôi không thể cặp tàu vào được mà phải dùng canô để chuyển quân và quân trang vào đảo. Trên đảo có một tòa nhà lớn được xây dựng từ thời Pháp thuộc, cao khoảng 8m, tường dày 2m dành cho đảo trưởng.

Trong phòng làm việc của đảo trưởng có một bức tường ghi tên tất cả những người lính đã ra đây giữ đảo. Và tên của chúng tôi đã được ghi lên đó, đó là niềm vinh dự lớn lao của một người con đất Việt. Xung quanh đảo là những rừng cây, tuy không to lớn nhưng cũng đủ để che chắn nắng gió cho lính đảo. Hình ảnh lần đầu tiên đặt chân lên mảnh đất tuyệt đẹp của Tổ quốc nơi xa đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ y nguyên. Xúc động lắm”.

2. Ông Nguyễn Văn Đức kể: “Nhiệm vụ của chúng tôi là đo đạc, báo cáo về sở chỉ huy ở đất liền những tin tức ở Hoàng Sa mỗi ngày. Anh em khí tượng làm nhiệm vụ quan trắc và báo cáo tình hình thời tiết để phục vụ cho tàu bè lưu thông trong vùng. Trang bị vũ trang lúc ấy không nhiều, chỉ có hai khẩu đại liên 50mm nhưng anh em vẫn kiểm soát được toàn bộ quần đảo Hoàng Sa. Tàu bè quốc tế ngang qua đều tôn trọng chủ quyền của chúng ta, và chúng ta cũng sẵn sàng hỗ trợ tàu bè khi gặp bão tố. Những lúc rảnh rỗi chúng tôi thường dùng canô đi qua các đảo lân cận để chơi vì cảnh quan ở đây rất hữu tình. Đảo Cát, đảo Chim, đảo Elbe, đảo Duncan, đảo Drumond... chúng tôi đều đã đặt chân đến”.

Trầm ngâm nhớ lại những ngày tháng gắn bó với mảnh đất xa xôi của Tổ quốc, cựu chuẩn úy Nguyễn Văn Đức kể tiếp: “Khi thủy triều xuống, cả rạn san hô hiện lên tuyệt đẹp như một rừng hoa biển. Mỗi khi nhớ đất liền, anh em lại lấy vài cành san hô bỏ vô chậu, bắt vài con cá nhỏ ngồi ngắm nghía bên tách cà phê đen. Có sống ở đảo mới thấy nhớ đất liền, yêu quê cha đất tổ.

Thời tiết ở đây khá ôn hòa nhưng gió mạnh lắm, nhiều khi anh em bị gió đẩy ngã sóng soài. Tuy vất vả, thiếu thốn nhưng anh em thấy vui và hãnh diện khi được trấn giữ biển đảo quê nhà”.

Ông nói có hai di tích ở đảo Hoàng Sa ông không thể nào quên. Đó là cái miếu nhỏ ở góc đảo mà anh em lính đảo vẫn thường ra đó để tìm chút an bình giữa sóng gió.

Ông kể: “Mỗi khi sóng to gió lớn hay thấy lòng bất an, anh em chúng tôi thường tìm đến ngôi miếu. Lạ lắm, chỉ cần ngửi thấy mùi nhang khói là cảm giác ở xa đất liền như được gần lại. Hơn nữa, mùi nhang khói như gợi lên những tiềm thức về quê cha đất tổ, nhớ về nguồn cội. Đó là những điều cần thiết để những người con đất Việt như chúng tôi yên lòng nơi đầu sóng ngọn gió giữ gìn biển đảo của cha ông để lại. Cạnh đó là một nghĩa trang có hơn 30 ngôi mộ là hài cốt của những chiến sĩ người Việt ngã xuống vì bệnh tật nơi đảo xa, là nắm xương của những người con Việt đã nằm xuống sau những lần đụng độ với âm mưu xâm lược của ngoại bang.

Ở đó còn có cả hài cốt của những ngư dân từ miền Trung, miền Bắc gặp nạn trên đường mưu sinh. Và cũng có cả những nắm xương của lính nước ngoài bị chúng ta hạ gục khi âm mưu đánh chiếm đảo. Có một điều là chúng tôi không phân biệt địch ta khi họ đã ngã xuống, mỗi ngày rằm hay cuối tháng chúng tôi đều thắp nhang lên những nấm mồ hoang. Có lẽ đó là một nét đặc biệt của người Việt mình, là một hành xử đầy tính nhân văn, “lấy nhân nghĩa để thắng hung tàn” mà mỗi người Việt chúng ta còn lưu giữ được từ dòng máu Lạc Hồng!”.

Bia chủ quyền VN ở Hoàng Sa được dựng vào những năm 1930 (ảnh chụp tại phòng lưu trữ tư liệu Hoàng Sa, Đà Nẵng)

3. Ngày 19-1-1974, ngày quân Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm Hoàng Sa - một phần máu xương của Tổ quốc VN, là ngày ông Đức cảm thấy đau đớn nhất trong cuộc đời mình.

Ông xúc động kể lại: “Khi hay tin Hoàng Sa bị quân Trung Quốc tước đoạt bằng vũ lực, tôi đau đớn đến mức nước mắt không thể chảy được, lòng dạ như ai xát muối. Tôi biết ngoài kia những đứa con của đất Việt sẽ phải đổ máu vì quê hương. Tôi đau vì một mảnh đất tuyệt đẹp và giàu có của nước nhà đã bị ngoại bang vô cớ cướp đoạt. Đó là nỗi đau của một người con đất Việt!”.

Là một người từng học và hiểu biết về luật quốc tế, ngay trong ngày Hoàng Sa bị chiếm đó ông đã âm thầm lục tìm lại những tài liệu liên quan, gói ghém cẩn thận nhằm làm bằng chứng chủ quyền của VN đối với quần đảo Hoàng Sa. Đó là tờ sự vụ lệnh đã nhàu nát và úa vàng vì thời gian.

35 năm sau, ông Đức quyết định liên hệ với chính quyền và báo Tuổi Trẻ để cung cấp những bằng chứng quý báu đó. Có lẽ những ai quen biết ông đều không mấy khó hiểu về hành động yêu nước của ông khi biết trong ngày 30-4-1975, ông đã từng xuống tàu để rời Việt Nam, nhưng trong một tích tắc của thời khắc lịch sử ông đã nhảy lại lên bờ, bởi ông biết không nơi đâu bằng quê hương.

Ông Đức lần giở lại tờ sự vụ lệnh năm nào rồi nói: “Chừng nào Hoàng Sa vẫn còn trong tay ngoại bang thì niềm vui vẫn chưa thể gọi là trọn vẹn được. Tôi sợ rằng lớp trẻ sẽ quên mất Hoàng Sa, sẽ quên mất một phần máu thịt của Tổ quốc, sẽ quên mất rằng có rất nhiều người con của đất Việt đã ngã xuống vì Hoàng Sa trong ngày đáng nhớ 19-1-1974”. Có lẽ đó không chỉ là điều trăn trở của riêng ông. (Thế Anh)

Kỳ 2: Biển động

TT - Tình hình tại biển Đông đột ngột trở nên căng thẳng vào ngày 11-1-1974 khi Trung Quốc ngang nhiên tuyên bố các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đang được chính quyền Sài Gòn quản lý, là một phần lãnh thổ của họ. Ngay sau tuyên bố nói trên, hải quân Trung Quốc đã mở màn chiến dịch xâm chiếm Hoàng Sa bằng cách tung nhiều chiến hạm và tàu đánh cá vũ trang xâm nhập hải phận Hoàng Sa.

Trong các ngày kế tiếp, phía Trung Quốc bất ngờ đổ người lên các đảo của Việt Nam. Đến ngày 15-1-1974, quân Trung Quốc đã chiếm đóng các đảo Cam Tuyền (Robert), Vĩnh Lạc (Money), Quang Hòa (Duncan) và Duy Mộng (Drummond)...

Ngày 12-1-1974, ngoại trưởng Vương Văn Bắc của chính quyền Sài Gòn đã cực lực bác bỏ luận điệu ngang ngược và lên án hành động gây hấn của Trung Quốc, đồng thời Bộ tư lệnh Hải quân Sài Gòn đã đưa bốn chiến hạm ra vùng biển Hoàng Sa để bảo vệ lãnh thổ. Và trận hải chiến Hoàng Sa đã nổ ra ngày 19-1-1974.

Tác giả câu chuyện này là người đã có mặt trong cuộc hải chiến Hoàng Sa 35 năm trước: ông Lữ Công Bảy - quân nhân trên chiến hạm Trần Khánh Dư HQ-4. Sau ngày giải phóng 1975, ông Bảy vẫn ở lại VN, phục vụ trong lực lượng hải quân quân đội nhân dân VN. Hiện ông là nhân viên bảo vệ của Đài truyền hình VN tại TP. HCM.

* * *

Khi tôi ghi lại những dòng hồi ký này, sự việc đã xảy ra 35 năm (1974 - 2009). Đã 35 năm trôi qua, những gì tận mắt tôi đã chứng kiến, những gì tôi đã trực tiếp tham gia trong trận hải chiến với hải quân Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa ngày 19-1-1974 vẫn không phai mờ trong tâm trí tôi.

Ông Lữ Công Bảy

Lúc bấy giờ tôi là thượng sĩ giám lộ (giám sát lộ trình - hàng hải) trên khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ-4 (chiến hạm tối tân nhất của hải quân Sài Gòn thời bấy giờ) với chức danh hạ sĩ quan phụ tá trưởng ngành giám lộ, kiêm hạ sĩ quan phụ tá trưởng khối hành quân.

Với chức danh đó, lúc nào (trong nhiệm sở tác chiến hay hải hành) tôi đều phải có mặt thường xuyên trên đài chỉ huy, thường xuyên bên hạm trưởng Vũ Hữu San (trung tá hải quân). Nhiệm vụ của anh em chúng tôi là ghi lại nhật ký tác chiến, nhật ký hàng hải, xác định vị trí của chiến hạm, đồng thời nhận và chuyển những tài liệu bằng đèn và cờ.

Hôm ấy, ngày 16-1-1974, gió mùa đông bắc thổi mạnh trên biển Đông. Biển động mạnh. Chiến hạm chúng tôi đang tuần tiễu vùng biển Quảng Ngãi từ Sa Huỳnh đến cù lao Ré (đảo Lý Sơn). Đây đã là ngày thứ 14 lênh đênh trên biển. Chỉ còn một ngày nữa chiến hạm sẽ được về Đà Nẵng nghỉ bến, anh em thủy thủ đoàn rộn ràng nghĩ đến ngày được vào đất liền.

Chưa kịp dùng cơm trưa thì từ trung tâm truyền tin đưa lên đài chỉ huy một công điện thượng khẩn: lệnh cho tàu về ngay Đà Nẵng.

17 giờ tàu về đến quân cảng Đà Nẵng (cảng Tiên Sa). Hạm trưởng San và đại úy Diên - trưởng khối hành quân, được lệnh lên họp khẩn cấp ở trung tâm hành quân Bộ tư lệnh hải quân vùng 1 duyên hải. Từ trung tâm hành quân, hạm trưởng điện về tàu lệnh cho ban ẩm thực lên bờ đi chợ (tiếp tế lương thực).

20 giờ hạm trưởng San về tàu. Lệnh cấm trại 100% được ban ra. Ban cơ khí chuẩn bị bắt ống để nhận dầu và nước ngọt. Đến 21g, hai chiếc xe GMC chở một trung đội với đầy đủ vũ khí đạn dược xuất hiện. Lần đầu tiên trước mắt tôi được chứng kiến một toán quân mặc quân phục lạ lùng. Sau một hồi dọ hỏi tôi mới biết đây là lực lượng biệt hải. Tôi được lệnh từ đại úy Diên chuẩn bị hải đồ đi Hoàng Sa.

23g, tàu khẩn cấp rời cảng Tiên Sa trực chỉ Hoàng Sa. Tôi cảm giác có một chuyện gì lớn lao sắp xảy ra.

- Ngày N+1

11g30 ngày 17-1, khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ-4 đã có mặt tại quần đảo Hoàng Sa. Trước đó ngày 16-1, tuần dương hạm Lý Thường Kiệt HQ-16 do hải quân trung tá Lê Văn Thự làm hạm trưởng cũng đã có mặt tại Hoàng Sa.

HQ-4 tiến gần đảo Vĩnh Lạc. Còi tác chiến vang lên, tất cả thủy thủ đoàn đã sẵn sàng ở vị trí chiến đấu.

14 giờ, trung đội biệt hải được lệnh rời tàu trên ba xuồng cao su, 20 phút sau trung đội biệt hải đã đổ bộ lên rìa đảo an toàn và nhận lệnh tiến sâu vào đảo lục soát.

Báo cáo từ đoàn quân gửi về: không phát hiện gì ngoài vài nấm mộ hình như mới đắp, không có bia, chỉ có cọc gỗ và bảng gỗ đóng trước đầu mộ ghi bằng chữ Trung Quốc với ngày sinh và ngày chết hàng mấy chục năm về trước.

Các chiến sĩ biệt hải được lệnh đào bới các nấm mộ giả lên, hóa ra chẳng thấy xương cốt gì cả. Đây là những nấm mộ ngụy tạo mà ai đó đã dựng lên để chứng tỏ có người Trung Quốc đã sống và chết trên đảo mà thôi.

16g30, lực lượng biệt hải được lệnh rút về tàu.

Đến buổi chiều, phòng chiến báo theo dõi qua hệ thống rađa tầm xa đã phát hiện hai mục tiêu trên biển đang di chuyển đến quần đảo Hoàng Sa. Từ nóc đài chỉ huy, các bộ phận quan sát bằng ống nhòm đã nhìn thấy hai tàu chiến lạ. Trung tâm chiến báo được lệnh theo dõi và báo cáo thường xuyên mọi hoạt động, hướng đi, khoảng cách của hai tàu trên.

Đêm 17 rạng 18-1 là một đêm cực kỳ căng thẳng. Còi nhiệm sở tác chiến báo động suốt đêm. Phía Trung Quốc tăng cường lực lượng và cố tình khiêu khích, các chiến hạm của họ tiến sâu vào lãnh hải Hoàng Sa. Tàu HQ-4 và HQ-16 dùng tín hiệu cảnh cáo: Đây là lãnh hải của Việt Nam.

Yêu cầu các ông hãy rời khỏi đây ngay! Phía Trung Quốc đáp trả, cho rằng Hoàng Sa là của họ.

Tàu đánh cá vũ trang Trung Quốc chặn đường tàu VN trên đường ra Hoàng Sa. Ảnh tư liệu

- Ngày N+2

Sáng 18-1, chiến hạm HQ-4 của chúng tôi tiến về đảo Cam Tuyền.

Lúc 8g, trung đội biệt hải được lệnh đổ bộ lên đảo. Sau khi lục soát chỉ phát hiện những nấm mộ mới đắp không hài cốt y như ở đảo Vĩnh Lạc.

Đến 11g, đài khí tượng và quân đồn trú đảo Hoàng Sa báo cáo có hai tàu đánh cá vũ trang mang cờ Trung Quốc xâm nhập và tiến gần đến đảo Hoàng Sa, tàu HQ 4 và HQ 16 được lệnh tiến về đảo Hoàng Sa. Khi tiến đến gần tàu đánh cá vũ trang của Trung Quốc, tàu HQ-4 dùng tín hiệu cảnh cáo và đuổi đi nhưng cả hai tàu Trung Quốc cố tình khiêu khích.

Tàu HQ-4 tiến thẳng đến một tàu đánh cá vũ trang Trung Quốc. Trên tàu có khoảng 30 thuyền viên mặc đồng phục màu xanh dương đậm. Tàu được trang bị hai thượng liên (một đằng trước mũi và một đằng sau lái tàu), ngoài ra có rất nhiều súng AK 47. Tàu HQ-4 quyết định áp sát mạn tàu đánh cá Trung Quốc để xua đuổi.

Hai bên đánh nhau bằng... võ mồm. Thấy không tác dụng, tàu HQ-4 lùi ra dùng mũi tàu ủi thẳng vào tàu Trung Quốc, mũi tàu HQ-4 và neo mũi vướng vào cửa và hành lang phòng lái làm gãy hành lang và cong cửa phòng lái của tàu Trung Quốc. Trước thái độ cương quyết của hải quân VN, họ vội vàng tháo lui. Chiến hạm HQ-16 cũng quyết liệt xua đuổi tàu đánh cá vũ trang còn lại.

Cũng trong sáng 18-1, tuần dương hạm Trần Bình Trọng HQ-5 do trung tá hải quân Phạm Trọng Quỳnh làm hạm trưởng được lệnh tăng cường ra Hoàng Sa. Cùng đi trên HQ-5 có đại tá Hà Văn Ngạc, được giao nhiệm vụ chỉ huy trưởng lực lượng bảo vệ Hoàng Sa. Ngoài ra, đi theo tàu có một trung đội người nhái (lực lượng đặc biệt của hải quân).

Lúc 15g30 chiều 18-1, lệnh đại tá Ngạc cho ba chiến hạm HQ-4, HQ-5, HQ-16 sắp đội hình hàng dọc tiến thẳng về đảo Duy Mộng. Khoảng 16g, có hai tàu chiến Trung Quốc bắt đầu khiêu khích, cắt đường ngang mũi HQ-4 và HQ-16. Đội hình bị chia cắt không thể tiến lên được vì các tàu rất gần nhau, các khẩu đại bác sẵn sàng nhả đạn nhưng không ai được lệnh nổ súng.

Đêm 18 rạng ngày 19-1, tàu chiến và tàu đánh cá vũ trang Trung Quốc vẫn tiếp tục khiêu khích, tiến đến gần đảo Hoàng Sa. Chiến hạm HQ-4 phải dùng còi hơi thật to và đèn hồ quang trên nóc đài chỉ huy rọi thẳng vào đội hình tàu Trung Quốc. Tình hình dịu hơn khi tàu Trung Quốc rút lui về hướng bắc.

Đến nửa đêm, hộ tống hạm Nhật Tảo HQ-10 do thiếu tá hải quân Ngụy Văn Thà làm hạm trưởng đã ra chi viện cho lực lượng bảo vệ Hoàng Sa. (Lữ Công Bảy)

Sơ đồ các hướng tấn công trận hải chiến Hoàng Sa ngày 19-1-1974

30 phút và 35 năm

TT - Cả ngày 17 và 18-1-1974, biển Đông dậy sóng. Phía Trung Quốc tăng cường lực lượng và cố tình khiêu khích, các chiến hạm của họ tiến sâu vào lãnh hải phía tây quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Đến nửa đêm 18-1, hộ tống hạm Nhật Tảo HQ-10 đã ra đến nơi chi viện. Đêm ấy, bầu trời Hoàng Sa tối đen như mực, một đêm cực kỳ căng thẳng.

- Ngày N+3

Lúc 6g sáng 19-1-1974, khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ-4 đã tiến sát đảo Quang Hòa và trung đội biệt hải được lệnh đổ bộ khẩn cấp lên đảo. Không một tàu chiến nào của Trung Quốc phát hiện được HQ-4 và tuần dương hạm Trần Bình Trọng HQ-5.

Khi gần đến đảo, bằng ống nhòm và mắt thường từ đài chỉ huy, chúng tôi đã phát hiện doanh trại mới toanh và cột cờ có cờ Trung Quốc (trước đó hơn một tháng, HQ-4 trong một chuyến khảo sát quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam đã không phát hiện gì ngoài chai lọ trôi tấp lên bãi cát). Chúng tôi hiểu rằng quân Trung Quốc đã bí mật chiếm đảo. Hai mươi phút sau, lực lượng biệt hải đổ bộ lên đảo (mặt đông nam). Lực lượng đổ bộ cắm cờ Việt Nam lên bờ cát và hốc đá, rồi khẩn cấp tiến vào bên trong đảo.

Trong khi đó, lực lượng người nhái vẫn còn ngoài xa chưa vào được vì HQ-5 không thể vào sát bờ, gió mùa đông bắc thổi khá mạnh, các xuồng cao su bị sóng gió giật dữ dội không vào bờ được. HQ-5 phải thả tàu cứu hộ xuống để kéo các xuồng cao su vào. Từ đài chỉ huy, bộ phận quan sát chúng tôi đã phát hiện một tàu Trung Quốc đang đổ bộ một đội quân đông đảo lên phía bắc đảo, hàng trăm quân Trung Quốc ồ ạt vào đảo rất nhanh vì xuôi gió.

Thế rồi báo cáo bất lợi dồn dập gửi về đài chỉ huy tàu HQ-4. Một số đông quân Trung Quốc nấp sau các tảng đá chĩa thẳng mũi súng vào đội hình biệt hải. Trên mặt biển lúc ấy, chúng tôi thấy tuần dương hạm Lý Thường Kiệt HQ-16 và hộ tống hạm Nhật Tảo HQ-10 đang tiến về rìa tây nam đảo, theo sau là bốn tàu chiến Trung Quốc đang tiến vào đội hình của ta. Tình hình bắt đầu căng thẳng, báo hiệu một trận đụng độ sinh tử không thể nào tránh khỏi.

Trong khi đó ở phía bắc đảo, những chiếc tàu đánh cá vũ trang Trung Quốc tiếp tục cho đổ người ồ ạt lên đảo của ta.

Và họ nổ súng trước.

Vào lúc 8g30, một loạt đạn đại liên và cối 82 bắn vào đội hình người nhái Việt Nam làm hai binh sĩ tử thương và hai bị thương. Nhưng chỉ huy phía Việt Nam không thể ra lệnh cho các tàu nổ súng vì lực lượng người nhái đang ở vị trí cực kỳ nguy hiểm.

Khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ-4 - một trong bốn tàu tham gia trận hải chiến Hoàng Sa năm 1974. Ảnh tư liệu

- Lệnh nổ súng

Lúc đó, sát bên tàu HQ-4 của chúng tôi đã xuất hiện hai tàu chiến Kronstadt của Trung Quốc mang số hiệu 274 và 271 sơn màu xám đen, trang bị đại bác 100 li và nhiều đại bác 37 li. Các họng súng đại bác Trung Quốc đều đang chĩa thẳng vào tàu HQ-4.

Các tín hiệu bằng đèn hiệu được liên tục chuyển đến HQ-4. Chúng tôi nhận những tín hiệu từ tàu Trung Quốc và trình cho hạm trưởng HQ-4 Vũ Hữu San. Nghe xong một nội dung cực kỳ khiêu khích từ tàu Trung Quốc, hạm trưởng San tức thì đỏ mặt, quát tháo ầm ĩ. Quay sang chúng tôi, ông ra lệnh không nhận tín hiệu từ tàu Trung Quốc nữa.

Vào thời điểm hết sức căng thẳng này, khi trận chiến sắp nổ ra, việc thông tin liên lạc giữa lực lượng bảo vệ Hoàng Sa và Bộ tư lệnh hải quân vùng 1 duyên hải thường xuyên bị đứt. Tần số liên lạc bị phá rối, trên hệ thống bộ đàm chỉ nghe toàn tiếng Hoa. Đại tá Hà Văn Ngạc, lúc đó đang ở trên chiến hạm HQ-5, được giao toàn quyền hành động (lệnh khai hỏa đã được truyền đi từ Bộ tư lệnh hải quân vùng 1 duyên hải trước đó. Nhưng một hồi lâu sau, quyết định nổ súng mới được thực hiện sau cuộc điện đàm giữa đại tá Ngạc và tư lệnh hải quân vùng 1 Hồ Văn Kỳ Thoại.

Đại tá Ngạc ra lệnh: Tất cả đại bác đều phải hướng lên đảo. Khi nhận lệnh bắn thì tất cả khai hỏa lên đảo, dọn đường lập đầu cầu để biệt hải và người nhái đổ bộ tái chiếm đảo. Đó là lệnh từ soái hạm chỉ huy HQ-5. Nhưng hạm trưởng Vũ Hữu San đã bực bội trước lệnh này. Trước khi chuẩn bị nổ súng, đại tá Hà Văn Ngạc có hỏi ý kiến từng hạm trưởng.

Đến khi hỏi ý kiến HQ-4, hạm trưởng Vũ Hữu San gằn từng tiếng trong bộ đàm: “Trình đại bàng, tôi là quân nhân, tôi chấp hành quân lệnh nhưng hiện nay nước cờ đã bị lộ, không còn yếu tố bất ngờ, muốn đổ bộ lên chiếm đảo trước mắt phải tiêu diệt lực lượng trên biển trước khi tính đến việc đổ quân, hiện nay số tàu địch gấp đôi tàu ta, quân địch đã đổ bộ từ sáng đến giờ đầy trên đảo, ta chỉ có hai trung đội thì làm sao thành công được?”. Rồi hạm trưởng San nói tiếp: “Tôi là quân nhân, tôi chấp nhận hi sinh vì Tổ quốc, nhưng...”.

Ông cúp máy và ra lệnh: “Tất cả khẩu súng nhắm thẳng vào tàu địch!”.

- Quyết liệt

Đúng 10g20, bốn chiến hạm HQ-4, HQ-5, HQ-10, HQ-16 đồng loạt khai hỏa. Như đã chuẩn bị trước, hạm trưởng Vũ Hữu San ra lệnh “bắn”. Chiến hạm di chuyển với tốc độ cực nhanh, khói đen bốc lên ngùn ngụt, thân tàu rung lên bần bật vì trúng đạn, vì tiếng dội của các khẩu đại bác vừa khai hỏa.

Chiến hạm HQ-4 chạy uốn lượn như con rắn, hết sang phải lại sang trái nên đã tránh được loạt đạn đại bác của đối phương. Thế rồi các cột nước bùng lên, đạn rít xung quanh tàu vèo vèo. Một mảnh đạn phạt lủng đài chỉ huy, văng ra trúng chân trung úy Roa đang cố gắng theo dõi tàu Trung Quốc qua màn hình rađa. Thượng sĩ nhất giám lộ Ry trúng mảnh đạn nơi cánh tay trái. Hạ sĩ giám lộ Phấn, xạ thủ đại liên 30 trên nóc đài chỉ huy, bị thương nơi ngực, máu thấm đỏ cả áo.

Tiếng la ơi ới của các anh em bị thương vọng lên đài chỉ huy.

Tuy nhiên, chiến hạm HQ-4 vẫn vững vàng trong cuộc hải chiến. Đài quan sát trên nóc báo cáo có tàu Trung Quốc đang đuổi theo. Tôi nhìn ra phía sau vừa thấy hai tàu chiến Trung Quốc. Liền lúc đó từ mạn phải HQ-5 cắt đuôi HQ-4 rồi phóng thẳng vào hai tàu đối phương. Những khối cầu lửa từ mũi HQ-5 bắn ra (đại bác 127 li) bay thẳng vào tàu Trung Quốc. Một chiếc trúng đạn bốc cháy, một chiếc quay ngang và sau đó lãnh đủ hàng loạt đạn từ HQ-4.

Nhưng ngay lúc đó, thông tin từ HQ-5 cho biết ụ tháp đại bác 127 li của tàu này đã bị trúng đạn, ba quân nhân tử thương, hai bị thương nặng. HQ-4 vòng lại yểm trợ HQ-5. Không thấy tàu HQ-16 và HQ-10 đâu cả. Liên lạc mãi với hai tàu này vẫn không được.

Thật ra lúc ấy tàu HQ-10 đã bị thương nặng. Tàu này nhỏ, cũ kỹ, các khẩu đại bác xoay trở bằng tay nên bị trúng liền hai quả 100 li từ tàu Trung Quốc. Trong bộ đàm tôi đã nghe tiếng bạn tôi, trung sĩ nhất giám lộ Vương Thương, báo cáo: HQ-10 đã bị trúng đạn, hạm trưởng Ngụy Văn Thà tử thương, hạm phó Thành Trí trọng thương ngay bụng. Hầu hết sĩ quan, hạ sĩ quan và thủy thủ trên đài chỉ huy đều bị tử thương và bị thương rất nặng.

Tuần dương hạm Trần Bình Trọng HQ-5. Ảnh tư liệu

HQ-4 và HQ-5 quay đầu về hướng nam. Sau đó một giờ không còn thấy HQ-5 ở đâu. HQ-5 do máy yếu và một máy bị sự cố chưa kịp khắc phục nên “rớt” lại đâu đó. Trên biển HQ-4 trở nên lẻ loi một mình. Đó cũng là lúc hải quân Trung Quốc tung xuống một lực lượng rất mạnh từ đảo Phú Lâm gần đó và từ căn cứ ở đảo Hải Nam. Trước tình hình đó, để bảo toàn lực lượng, hạm trưởng Vũ Hữu San đã vẽ một đường trực chỉ về Đà Nẵng.

Lúc này tôi mới rời được đài chỉ huy. Trên đường xuống nơi nghỉ ngơi, tôi đã chứng kiến một cảnh tượng kinh khủng sau chiến trận. Hành lang dưới tàu tanh đến ngộp thở: mùi máu, mùi cồn, bông băng... Hơn 130 binh sĩ bám chặt vị trí chiến đấu giờ đều mệt lả, nằm đâu ngủ đó. Họ chỉ cầm hơi bằng mì gói, nước ngọt và lương khô. Các binh sĩ biệt hải kiệt sức nằm rải rác trên hành lang phòng ăn.

- Nỗi đau còn lại

Khoảng 16g30, tôi đang trong giấc ngủ sâu vì đã mấy hôm không chợp mắt thì còi tập họp vang lên. Tất cả thủy thủ đoàn tập họp đầy đủ nghe thông báo: “Tất cả chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu, tàu được lệnh quay lại Hoàng Sa. Nếu cần sẽ ủi thẳng lên bờ đảo Hoàng Sa, chiến đấu đến cùng để giữ đảo”. Nhìn sau lái tàu, tôi biết tàu đang quay lại và hướng thẳng về Hoàng Sa. Tất cả đều bất động, không ai nói với ai một lời nào trước giờ phút cảm tử này.

Tôi vào phòng hải đồ phía sau đài chỉ huy mệt lả và thiếp đi, đến khi thức dậy trời tối hẳn, trung sĩ nhất giám lộ Khiết cho biết tàu đang quay đầu về Đà Nẵng. Anh nói hạm trưởng San báo cáo thẳng với tư lệnh hải quân là HQ-4 không còn khả năng chiến đấu, lương thực cạn, cơ số đạn không còn đủ để tác chiến, các khẩu đại bác đều có trục trặc... Lệnh từ đất liền: các tàu quay về, hủy bỏ lệnh tấn công tái chiếm Hoàng Sa.

5g30 sáng 20-1 HQ-4 về đến cảng Tiên Sa, 9g tàu HQ-5 tiến vào vịnh Đà Nẵng.

Lúc 12g30, tàu HQ-16 bị thương nặng, từ từ tiến vào vịnh với sự trợ giúp của hai tàu lai dắt biển.

Tối hôm đó, 20-1-1974, cũng là đêm 30 tết âm lịch, anh em chúng tôi được dự buổi liên hoan tất niên cuối năm theo truyền thống. Giữa mâm cao cỗ đầy nhưng ai nấy đều buồn bã, không thiết gì đến ăn uống. Mọi người vẫn hết sức lo lắng cho số phận đồng đội đang trôi giạt trên sóng biển giữa ngày tết thế này, lo lắng cho số phận anh em mắc kẹt lại các đảo. Ai cũng hồi tưởng trận hải chiến hôm qua và đau đớn trước một điều: dù đã cố gắng hết sức vẫn không giữ được mảnh đất thiêng liêng mà tổ tiên để lại.

Trận hải chiến Hoàng Sa chỉ kéo dài hơn 30 phút, nhưng nỗi đau ấy vẫn làm quặn thắt trái tim chúng tôi dù 35 năm đã trôi qua. (Lữ Công Bảy)

* * *

Theo các nhân chứng trên tàu Nhật Tảo HQ-10 còn sống sót, khi hộ tống hạm này sắp chìm, 28 thủy thủ đã được lệnh đào thoát bằng các phao bè. Họ đã trôi giạt trong sóng gió 78 giờ liền, và sáu người đã chết trên biển vì kiệt sức hoặc bị thương quá nặng, trong đó có hạm phó Nguyễn Thành Trí. Mãi đến chiều 22-1 họ mới được tàu dầu của Hãng Shell là Kopionella mang quốc kỳ Hà Lan cứu vớt. Lúc lên tàu, thêm một thủy thủ nữa qua đời vì kiệt sức.

* Ngay sau khi Trung Quốc dùng vũ lực xâm chiếm toàn bộ các đảo phía tây quần đảo Hoàng Sa do VN quản lý, ngày 19-1-1974 và 14-2-1974 chính quyền Sài Gòn đã ra tuyên cáo về việc Trung Quốc “xâm lăng trắng trợn bằng quân sự” và tái khẳng định về chủ quyền của VN đối với Hoàng Sa.

* Ngày 20-1-1974, ngoại trưởng chính quyền Sài Gòn cũng đã gọi điện và gửi thư cho chủ tịch Hội đồng Bảo an và tổng thư ký Liên Hiệp Quốc đề nghị những biện pháp cần thiết trước tình hình khẩn cấp về việc Trung Quốc dùng vũ lực xâm chiếm Hoàng sa.

* Trong khi đó, ngày 26-1-1974, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam VN cũng đã ra tuyên bố phản đối hành động xâm chiếm Hoàng Sa của Trung Quốc và công bố lập trường “về chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ” của VN.

* Sau ngày miền Nam giải phóng, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam VN đã nhiều lần tuyên bố khẳng định Hoàng Sa là của VN. Và ngày 5-6-1976, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Cộng hòa miền Nam VN đã lên tiếng bác bỏ những thông tin xuyên tạc về Hoàng Sa - Trường Sa và khẳng định hai quần đảo này là thuộc chủ quyền VN, từ trước đến nay đều do người VN quản lý.

Tác giả: Thế Anh

source
TiVi Tuan San

(...) phạt bốn nhà đấu tranh dân chủ các án tù từ 5 năm tới 16 năm

Cập nhật lúc: 1/21/2010 3:27:50 PM


Các bị cáo trước tòa từ trái: Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Tiến Trung, Lê Thăng Long và Lê Công Định. Ảnh CTV

Như mọi vụ án chính trị trước đây, (...), nhưng khi đưa ra xét xử, (...) chỉ xử trong thời gian rất ngắn với các án phạt mà các nhà quan sát quốc tế cho rằng đã có sắp đặt trước.

Trong 4 bị cáo, ra vẻ hai nhà trí thức là Luật sư Lê Công Định và Cao học sĩ Nguyễn Tiến Trung đã vì lý do gì đó mà chấp nhận tội và nói những lời hối lỗi trước tòa. Và có lẽ nhờ thế mà họ hưởng án nhẹ (5 năm và 7 năm tù).

Các bị cáo khác như Trần Huỳnh Duy Thức và Lê Thăng Long không nhận tội, nói họ chẳng làm điều gì sai, lại còn cho rằng bị ép cung trong thời gian bị giam giữ. Vì vậy ông Thức đã bị án 16 năm tù và 5 năm bị quản chế tại gia, một cái án gây ngạc nhiên cho mọi người.

Vì không “thành thật nhận tội “ để được khoan hồng lại còn (...), ông Thức đã bị các ông tòa trừng phạt nặng hơn bởi (...) trước đó chỉ đề nghị mức án 12 năm.

Một số nhà báo và viên chức ngoại giao được phép “dự” phiên tòa trong một phòng kế cận phòng xử qua máy truyền hình. Nhưng như tin từ (...) cho hay, khi đến đoạn các bị cáo phát biểu, âm thanh bị nhiễu nên chẳng nghe rõ.

Nhà báo Vũ Mai của VnExpress ở trong nước đưa tin vụ xử ngày 20.1.2010 tại Sài Gòn như sau:

Ông Lê Công Định nhận 5 năm tù

Đánh giá cao thái độ thành khẩn, ăn năn của ông Lê Công Định cùng việc có nhân thân tốt, phạm tội do bị lôi kéo... HĐXX đã tuyên phạt cựu luật sư mức án thấp hơn rất nhiều so với khung hình phạt.

Theo đó, tòa đã tuyên phạt ông Trần Huỳnh Duy Thức (44 tuổi) mức án 16 năm tù, ông Nguyễn Tiến Trung (27 tuổi) nhận 7 năm, ông Lê Công Định (42 tuổi) và Lê Thăng Long (43 tuổi) cùng mức án 5 năm tù về tội "hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân".

Ngoài ra, tòa cũng buộc các bị cáo phải chịu sự quản thúc tại địa phương từ 3 đến 5 năm sau khi mãn hạn tù.

Theo HĐXX, hành vi phạm tội của các bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, xâm phạm an ninh quốc gia. Hoạt động của những người này có tổ chức chặt chẽ, phân công nhiệm vụ cụ thể, móc nối câu kết với các tổ chức, thế lực thù địch chống phá nhà nước.

Để thực hiện, các bị cáo đã sử dụng công nghệ thông tin, ứng dụng Internet, liên lạc, trao đổi bằng mật khẩu và làm ra các tài liệu có nội dung chống phá nhà nước, xuyên tạc, kích động gây nghi ngờ, mất lòng tin của nhân dân với Đảng và nhà nước.

Cũng theo HĐXX, ông Trần Huỳnh Duy Thức là người chủ mưu thành lập, cầm đầu tổ chức "Nhóm nghiên cứu Chấn".

Người này cũng tích cực tham gia vào tổ chức chống phá nhà nước có tên gọi "Đảng Dân chủ Việt Nam" và chịu trách nhiệm thành lập tổ chức "Đảng Xã hội Việt Nam" để tập hợp lực lượng.

Đối với ông Nguyễn Tiến Trung, tòa cho rằng ông này chủ mưu thành lập, cầm đầu tổ chức "Tập hợp thanh niên dân chủ" chống phá nhà nước Việt Nam, đồng thời tham gia đắc lực trong "Đảng Dân chủ Việt Nam".

Cùng với ông Trung, ông Lê Công Định cũng tham gia tích cực vào tổ chức trên và chịu trách nhiệm thành lập "Đảng lao động Việt Nam" để tập trung lực lượng. Ngoài ra, vị cựu luật sư này còn tham gia khóa huấn luyện về phương pháp "Bất bạo động" chống Việt Nam tổ chức tại Thái Lan.

Nhận định về ông Lê Thăng Long, HĐXX cho rằng ông này hoạt động trong "Nhóm nghiên cứu Chấn". Thời gian sau, dù đã tách ra khỏi tổ chức này nhưng ông Long lại thành lập "Phong trào Chấn hưng nước Việt"... và viết bài chống phá nhà nước Việt Nam.

Trước đó, trong lời nói sau cùng, với chất giọng khúc triết vốn có, ông Định khẳng định luật pháp và hiến pháp Việt Nam qui định và bảo vệ quyền lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với nhà nước và xã hội Việt Nam. "Vì vậy, những lời kêu gọi đa nguyên, đa Đảng mặc nhiên là muốn thay đổi thể chế chính trị Việt Nam. Những tổ chức nào chủ trương đa nguyên đa Đảng là đương nhiên vi phạm vào Điều 79 BLHS Việt Nam".


Từ góc nhìn pháp lý, bị cáo thừa nhận những việc mình làm là vi phạm pháp luật và do xuất phát từ chủ quan, bị ảnh hưởng quan niệm về dân chủ, dân quyền phương Tây và những tổ chức, cá nhân có hoạt động chống lại nhà nước Việt Nam mà ông này tiếp xúc.


“Ông, cha, mẹ và cô của tôi đã tham gia vào 2 cuộc kháng chiến, đã có đóng góp phần nào vào việc thành lập chính quyền hiện tại nhưng việc làm và hành vi của tôi là đi ngược lại với những đóng góp đó. Thực lòng tôi rất ân hận…”. Vị cựu luật sư nghẹn giọng trình bày.


Tương tự, ông Nguyễn Tiến Trung cũng thừa nhận mình đã vi phạm pháp luật Việt Nam và hai lần thừa nhận “rất ân hận” trong những lời nói sau cùng của mình. Bị cáo còn bày tỏ nguyện vọng được hưởng mức án nhẹ để sớm trở về phụng dưỡng cha mẹ, được là công dân tốt đóng góp cho sự phát triển bền vững của đất nước bằng những kiến thức đã học được.

HĐXX nhận định rằng, dù có thái độ khai báo khác nhau nhưng nhìn chung các bị cáo đã thành khẩn, đặc biệt là ông Lê Công Định và ông Nguyễn Tiến Trung. Những người này phạm tội là do bị lôi kéo bởi các thế lực thù địch, có nhân thân tốt, gia đình có công với cách mạng, được thưởng nhiều huân huy chương. Từ đó, tòa xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo so với khung truy tố.

Trong khi đó đài BBC Luân Đôn có những nhận định như sau về vụ án này:

Phát biểu ngay sau khi phiên tòa kết thúc, giới ngoại giao phương Tây bày tỏ quan ngại về án phạt đối với các nhà dân chủ.

Đại sứ Đan Mạch Peter Lysholt Hansen, một trong những người ngồi theo dõi phiên xử tại TP Hồ Chí Minh, nói với các nhà báo: "Đang có quan ngại lớn về cả quá trình (xét xử)".

"Chúng tôi sẽ mạnh mẽ yêu cầu chính phủ Việt Nam ân xá cho cả bốn người."

Tổng lãnh sự Hoa Kỳ tại TP HCM, ông Kenneth Fairfax, thì nói Mỹ "quan ngại sâu sắc" về các vụ bắt giữ và kết tội những người chỉ thực hiện quyền tự do ngôn luận của mình.

Ông Fairfax cũng từng nói Hoa Kỳ kêu gọi Việt Nam trả tự do cho họ ngay lập tức và vô điều kiện.

Các bị can bị buộc tội đã cấu kết với "các thế lực phản động" trong và ngoài nước nhằm lật đổ chế độ. Hoạt động c̉ủa họ đã được ghi lại trên các trang web, bài viết và tài liệu mà cơ quan điều tra ghi được.

Những người này cũng bị buộc tội liên quan tới Đảng Dân chủ Việt Nam, vốn không được phép hoạt động trong nước.

Ông Lê Công Định còn bị cáo buộc đã tham gia khóa huấn luyện lật đổ bất bạo động do tổ chức Việt Tân, mà Việt Nam liệt vào danh sách khủng bố, tổ chức.

Các vụ bắt giữ và phiên xử hôm thứ Tư đã gây phản ứng mạnh từ các tổ chức nhân quyền và chính phủ nước ngoài.

Liên hiệp châu Âu, chính phủ Hoa Kỳ và một số tổ chức quốc tế đã lên tiếng kêu gọi trả tự do cho các bị cáo.

Sự chú ý tập trung khá nhiều vào luật sư Lê Công Định, người được biết tới nhiều cả ở trong và ngoài nước.

source

TiVi Tuan San