Wednesday 24 November 2010

Họa phẩm vua Hàm Nghi bán đấu giá gần $12,000


Họa phẩm vua Hàm Nghi bán đấu giá gần $12,000
Wednesday, November 24, 2010



PARIS (NV) -
Một bức tranh sơn dầu do vua Hàm Nghi vẽ, bán được tới 8,800 Euros, tương đương 11,730 đô la Mỹ, trong một cuộc đấu giá tại Paris hôm Thứ Tư.

Bức tranh “Chiều tà” hay “Ðường cái El Briar” do Vua Hàm Nghi vẽ. (Hình: SVV Millon & Associés)

Bức tranh được nhà bán đấu giá SVV Millon & Associés rao giá khởi đầu là 1,000 Euros, và đã bán được trong một thời gian rất ngắn, trong một phòng đấu giá đầy ắp người với một đám đông phải đứng.

Nhà Millon gọi tên bức tranh là “Déclin du jour” (“Chiều tà”) nhưng theo đài RFI, đó chỉ là tiểu tựa, ghi chú ở đằng sau. Tên bức tranh do vua Hàm Nghi đặt, là “La route à El Briar” (“Ðường cái El Briar”).

Chính quyền tỉnh Thừa Thiên-Huế đã yêu cầu Tòa Ðại Sứ Việt Nam ở Pháp tham gia đấu giá để mua bức tranh, theo tin Vietnamnet. Hiện nay không rõ người mua, được RFI cho biết là đấu giá qua điện thoại, là ai và có phải là tòa đại sứ hay không.

Tiến Sĩ Phan Thanh Hải, phó giám đốc Trung Tâm Bảo Tồn Di Tích Cố Ðô Huế nói rằng nếu Việt Nam thắng cuộc đấu giá, bức họa sẽ được thêm vào trong bộ sưu tập cổ vật hoàng cung và sẽ được trưng bày tại Viện Bảo Tàng Cổ Vật Cung Ðình Huế.

Ðây là bức sơn dầu lớn cỡ 35x46 cm, do Vua Hàm Nghi vẽ vào năm 1915 ở Algeria, khoảng thời gian vua Hàm Nghi ngụ tại biệt thự Gia Long thuộc khu El Biar, tại Alger. Năm 1926, nhà vua đã có cuộc triển lãm tranh tượng đầu tiên và duy nhất tại Paris.

Góc dưới phía trước có chữ ký Vua Hàm Nghi, và sau lưng có ghi Quà Tặng của Hoàng Tử An Nam.

Hiện nay chưa rõ ai là người nhận quà tặng này từ “Hoàng Tử An Nam” tức Vua Hàm Nghi, và hiện đưa ra bán.

Vua Hàm Nghi khi vẽ tranh lấy nghệ danh là Xuân Tử. Sinh thời, nhà vua học vẽ với thầy là Maurius Raynault và học điêu khắc với Auguste Rodin.

Nhà sử học Charles Fourniau, chuyên gia về phong trào Cần Vương, cho báo Thanh Niên biết ông đã từng gặp hai công chúa Như Mai và Như Lý, được hai bà cho xem một số tác phẩm của vua cha. Khi ông Fourniau đề nghị tổ chức triển lãm thì hai bà khước từ. Cho đến nay, con cháu của công chúa Như Lý vẫn giữ nguyên ý định của hai người. Không những thế, họ xem những tác phẩm nghệ thuật này là sở hữu riêng tư, không muốn công bố, dù là dưới hình thức hình ảnh hay phim.

Chân dung Vua Hàm Nghi.

Trong lần trả lời phỏng vấn trên Tạp chí Sông Hương số ra tháng 8, 2008, công chúa Như Lý xác nhận, tài sản vua Hàm Nghi để lại quý giá nhất là tranh. Vua Hàm Nghi vẽ tranh rất nhiều. Gia đình chưa bao giờ bán những bức tranh này. Tuy nhiên, khi gặp lại những người đã từng yêu mến vua Hàm Nghi, công chúa Như Mai thường lấy tranh của vua Hàm Nghi vẽ để tặng họ làm kỷ niệm.

Theo lời ông Alexandre Millon, giám đốc văn phòng Millon & Associés, đây là lần đầu tiên một tác phẩm của Vua Hàm Nghi được đem ra bán đấu giá. Ðiểm đáng chú ý là Văn phòng Millon & Associés giới thiệu tác phẩm này được vẽ bởi chính bàn tay của Hoàng đế An Nam tức là vua Hàm Nghi. Có lẽ cũng vì thế mà sự kiện này đã thu hút sự quan tâm của một số người Việt. Họ muốn đến xem tận mắt bức tranh “Chiều tà.” Theo cảm nhận của họ, tác phẩm của vua Hàm Nghi có giá trị tình cảm cũng như lịch sử.

Vua Hàm Nghi là vị hoàng đế thứ 8 của nhà Nguyễn. Tên thật là Ưng Lịch, nhà vua lên ngôi lúc 13 tuổi, năm 1884, một năm sau khi Việt Nam ký hòa ước cuối cùng thiết lập nền thuộc địa của Pháp tại Việt Nam.

Lên ngôi được chưa đến một năm, dưới sự chủ động của hai đại thần Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường, quân triều đình nổi lên đánh Pháp ngay tại Huế và nhà vua bỏ chạy khỏi kinh thành. Từ chỗ trốn chạy, Vua Hàm Nghi thảo “Hịch Cần Vương” kêu gọi người dân chống Pháp, dấy lên nhiều phong trào khởi nghĩa nổi danh, như: khởi nghĩa Hương Khê của Phan Ðình Phùng, Cao Thắng; khởi nghĩa Ba Ðình của Ðinh Công Tráng; khởi nghĩa của Mai Xuân Thưởng ở Bình Ðịnh; khởi nghĩa Hùng Lĩnh của Tống Duy Tân; khởi nghĩa Bãi Sậy của Nguyễn Thiện Thuật ở Hưng Yên; v.v...

Năm 1888, nhà vua bị bắt, và bị đày đi Algeria. Tại đây, Vua sống tới lúc qua đời năm 1943. Vua lấy vợ người Pháp và sinh hai công chúa và một hoàng tử.

source

Nguoi-Viet Online

Monday 22 November 2010

Thâm nhập chốt quân sự nơi InnovGreen trồng rừng


Kỳ 7:
Thâm nhập chốt quân sự nơi InnovGreen trồng rừng

- Phóng viên VietNamNet có chuyến thâm nhập khu vực biên giới Việt - Trung tỉnh Lạng Sơn, nơi Cty InnovGreen tiến hành làm đường trồng rừng ngay chốt quân sự 558.


Tại xã Tân Minh (huệnTràng Định, Lạng Sơn), doanh nghiệp này đã phá bỏ 12.000m2 rừng tự nhiên (theo số liệu của cơ quan chức năng Lạng Sơn) để làm đường lên biên giới; tiến hành cuốc hố để trồng rừng ngay trên chốt quân sự 558, cạnh đó là đầy rẫy những con “đường xương cá” qua các quả đồi sát ngay biên giới Việt Trung.


Theo thông tin mà ông Trần Văn Bào, PCT UBND xã Tân Minh, thì có điểm doanh nghiệp nước ngoài này trồng rừng chỉ cách đường phân định biên giới chỉ khoảng 700m, đường chim bay.


Phá bỏ 12.000 m2 rừng, làm đường lên biên giới


Từ con đường mà Cty InnovGreen nối các khu đồi núi trong khu vực phòng thủ quân sự then chốt của huyện Tràng Định, nhóm phóng viên VietNamNet lại ngược theo tỉnh lộ 229 để đến xã Tân Minh, một xã biên giới đặc biệt khó khăn. Nơi “đất rộng, người thưa”, người dân vẫn đang gặp phải nhiều khó khăn trong cuộc sống.


Con đường do Cty IG tại xã Tân Minh được bắt đầu tại ngã ba Nà Pẻn - Nà Pùng. Từ đây,
con đường này kéo dài qua khu vực rừng tự nhiên rồi đến sát khu vực biên giới.
Nơi có chốt quân sự 558. Ảnh: Duy Tuấn


Con đường tỉnh lộ này chỉ rải nhựa được khoảng 20km, khi đến khu vực xã Trung Thành nó cắt thành 2 nhánh. Một nhánh đi lên Bình Độ, còn một nhánh khác đi vào xã biên giới Tân Minh. Quả thật nói là tỉnh lộ nhưng trông “nó” không khác gì con đường mòn vào núi là mấy.


Ông Trần Văn Bào, PCT UBND xã Tân Minh tự hào nói với chúng tôi về tình hình công tác bảo vệ rừng trong những năm qua. Ông cho biết, xã Tân Minh có diện tích rừng tự nhiên khá lớn, riêng về độ che phủ thì đứng nhất nhì ở huyện Tràng Định.


Niềm vui từ việc bảo vệ rừng chợt tắt ngúm khi chúng tôi hỏi về tình hình Cty IG vào thuê đất trồng rừng trong xã. Ông lắc đầu ngán ngẩm vì đã 2 năm rồi từ khi dự án này vào nhưng chưa mang lại được lợi ích gì cho bà con và địa phương.


Thậm chí cách đây 3 tháng, Cty này đã đưa hàng chục người từ địa phương khác đến lao động nhưng không có giấy tờ hợp lệ nên lực lượng biên phòng đã trục xuất ra khỏi khu vực “vành đai biên giới”.


Những đường xương cá do Cty IG mở, chạy song song với tuyến đường của công ty này
đi lên khu vực biên giới. Ảnh: Duy Tuấn

thành thủ tục thuê đất thì Cty IG đã tiến hành trồng rừng, làm đường.

Địa điểm công ty có nguồn gốc nước ngoài này vào lập hồ sơ thuê đất trồng rừng bao gồm 2 thôn Nà Pùng và bản Kiêng (sát đường phân định biên giới Việt - Trung) với diện tích dự kiến là 200ha. Tuy vậy, cũng như nhiều địa phương khác, khi chưa hoàn
“Chúng tôi chưa nhìn thấy giấy tờ thuê đất hợp lệ .Bước đầu họ đặt vấn đề là thuê đất 50 năm. Chúng tôi thấy bất ổn quá nên đặt vấn đề với công ty hạ xuống. Thực ra người dân rất lo cho tương lai con cháu. Nếu công ty sở hữu hết đất trong vòng 50 năm thì trong khoảng thời gian đó con cháu chúng tôi sẽ không có đất để sản xuất và khó mà kiểm soát. Chính vì vậy nhiều bà con đã không nhất trí”, ông Bào nói.


Nhóm P.V quyết định đi vào khu vực rừng mà doanh nghiệp này đã tiến hành trồng và làm đường. Ông Bào cũng 1 chiến sỹ biên phòng thuộc biên chế Đồn biên phòng Hàm Nghi tình nguyện dẫn đường cho chúng tôi.

Từ trụ sở xã, đi tiếp khoảng 3km nữa thì kết thúc tỉnh lộ 229, đến địa bàn thôn Nà Pùng, điểm đầu tiên của khu vực trồng rừng của công ty IG. Từ khi công ty này chưa có mặt, đây vẫn là khu vực rừng tự nhiên được chính quyền và nhân dân chăm sóc bảo vệ, muốn vào rừng chỉ có những con đường mòn.


Khu vực trồng rừng, làm đường của Cty IG tại xã Tân Minh nằm trọn trong vành đai biên giới.
Vị trí nhạy cảm về an ninh quốc phòng. Thế nhưng, quá trình thẩm định, cấp phép cho dự
án 50 năm này tại Lạng Sơn không có sự tham gia của các cơ quan này. Ảnh: H. Sang

Quả thật, có đi vào rừng Tân Minh mới thấy lời của vị phó chủ tịch xã nói là đúng. Rừng tự nhiên ở đây có độ che phủ khá lớn, rất ít đồi trọc, có cả những cây thân gỗ to 40-50cm.


Ông Bào tiếp tục câu chuyện: “Bắt đầu từ ngã 3 Nà Pẻn – Nà Pùng này là đường do công ty IG. Chúng tôi chưa thấy một loại giấy tờ nào hữu hiệu của cấp có thẩm quyền cho phép. Họ làm các đường xương cá đi vào các khu rừng, chặt hạ nhiều diện tích rừng tự nhiên mà chúng tôi đã bảo vệ mấy chục năm. Tôi tính phải phá bỏ mấy trăm m3 gỗ chứ không ít”.


Năm 2008, người của công ty này đã mang máy ủi, xúc vào và tiến hành làm đường mà không có sự giám sát hay đồng ý bằng văn bản nào của cơ quan chức năng có thẩm quyền. Bởi khi làm đường vào rừng thì cũng đồng nghĩa với việc phải phá bỏ một diện tích rừng khá lớn.


Theo một tài liệu đáng tin cậy thì khi làm đường vào rừng ở thôn Nà Pùng và bản Kiêng, Cty IG đã phá bỏ 12.000 m2 rừng tự nhiên.

Mặc dù đã hơn 1 năm nhưng trên đoạn đường này vẫn còn sót lại rất nhiều khúc gỗ lớn, có đường kính 40-50cm, rồi những gốc cây lớn nằm rải rác bên đường vào. Ông Bào xót xa nói: Họ (Cty IG) tự động đưa máy móc vào làm. Số lượng rừng bị phá khá lớn. Diện tích rừng bị phá để làm đường đều là rừng tự nhiên, gỗ thì toàn loại gỗ nhóm 4”.


“Trận địa đường xương cá” cạnh chốt quân sự 558


Một cảm giác choáng ngợp khi bắt gặp cảnh những con đường đỏ chạy khắp các quả đồi ở khu vực này. Ông Bào cho biết, những con đường này đều do công ty IG làm để đi vào khu vực trồng rừng.


Chốt quân sự 558 trên biên giới ở xã Tân Minh, nơi Cty IG cuốc hố để trồng cây ngay trên
sườn, làm đường ở dưới chân núi. Ảnh: Duy Tuấn

Đường vào rừng không phải chỉ một đường nối các quả núi lại với nhau mà cạnh đó là những con đường nhỏ, rẽ vào các lối mà ông Bào ví von: Như kiểu trận địa đường xương cá ở khu vực biên giới.


Chỉ tay vào con đường phía đỉnh núi xa xa, ông Bào nói: Một bên là đường tuần tra biên giới, bên kia đã là đất Trung Quốc rồi. Điểm trồng rừng của Cty IG sát đường biên nhất chỉ cách độ khoảng 700m, tính theo đường chim bay.


Trên đường vào khu vực rừng của InnovGreen ở Tân Minh chúng tôi được nghe nói đến cái tên “chốt quân sự 558” nằm sát biên giới. Theo lời ông Phó chủ tịch xã Tân Minh, chốt quân sự này có vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo an ninh quốc phòng.
Là một lãnh đạo xã biên giới, ông Bào hiểu được sự phức tạp trong công cuộc bảo vệ biên cương, giữ từng tấc đất, cây rừng của cha ông để lại.


Chúng tôi quyết định thâm nhập “điểm cao 558” sau khi được sự cho phép của lãnh đạo xã và lực lượng biên phòng. Trước khi đi ông Bào có dặn, phải quan sát từ xa, không được leo lên đỉnh núi đấy vì có thể vấp phải vật liệu nổ còn sót lại.


Đường do Cty IG mở, chạy qua các đồi cao trên biên giới tại xã Tân Minh. Ảnh: Duy Tuấn

Điểm cao 558 là một đỉnh núi sừng sừng, cao nhất trong khu vực biên giới mà chúng tôi có mặt. Trên đồi chỉ có thảm cỏ xanh, ngoài ra không có cây cối gì. Sửng sốt hơn khi tiếp nhận thông tin, con đường nằm ngay dưới chân quả đồi này là do Cty IG làm. Nếu tính từ đỉnh núi xuống đường của IG thì chỉ khoảng độ 100m.


“Đứng trên đỉnh núi 558 có thể bao quát được cả xã Tân Minh, Trung Thành, Đội Cấn, Quốc Khánh và cả xã biên giới cạnh đó là Đào Viên nữa. Vì thế nó có vị trí rất quan trọng và nhạy cảm về quốc phòng an ninh, bảo vệ biên giới”, vị phó chủ tịch xã nói tiếp.


Trên đồi 558 xuất hiện những hố nhỏ, trông rất đều, thẳng hàng do con người tạo nên mà đứng từ xa cũng có thể nhìn thấy. Thấy chúng tôi phân vân, ông Bào liền nói: Đó là những dãy hố do công ty IG thuê người đào để trồng cây. Nếu tính từ hàng cuối cùng lên đến đỉnh đồi chỉ khoảng 40m.


Tuy không phải là nhà chiến lược quân sự, nhưng từ sau khi được đi tham quan rừng của Cty IG ở Quảng Ninh, vị phó chủ tịch xã biên giới này tỏ ra lo lắng:

“Đỉnh núi Khau Tét ở xã Hùng Việt cao lắm, về quốc phòng rất lợi, kinh tế không lợi mấy, thế nhưng Cty IG đã tốn bao nhiêu tiền của để mở đường, cho máy móc làm thành con đường xoắn ốc lên đỉnh.


Rừng bạch đàn của Cty IG đã được trồng ở khu vực này. Con đường đất đó phía trên được
kéo dài tới sát đường tuần tra biên giới Việt Trung. Ảnh: Duy Tuấn

Nghiệm lại Tân Minh chúng tôi Cty này nhắm vào điểm cao, là điểm tựa bảo vệ địa bàn xã này khi có biến. Tôi thấy về mặt quân sự không đảm bảo. Cty IG vào xã tôi lập hồ sơ thuê đất 50 năm, trong diện tích dự kiến thì chủ yếu là khu vực sát với đường biên, lại có cả chốt quân sự, nhiều điểm cao, nếu có tình huống gì xẩy ra thì khó mà kiểm soát”.

Ông Bào nói tiếp, chỉ 200 ha ở xã Tân Minh mà công ty đầu tư lớn để mở nhiều con đường, sát ngay biên giới. Tôi nghĩ về kinh tế thì rất nhỏ, không phải là mục đích cơ bản. Chẳng qua là lấy cớ thông qua mục đích kinh tế theo ý của họ?


Thực tế ở xã Tân Minh khiến chúng tôi nhớ lại lời của ông Lý Vì, Bí thư xã Hà Lâu (Tiên Yên, Quảng Ninh) trong lần thứ 2 quay lại. Chúng tôi có thắc mắc là vì sao công ty hứa làm đường nhưng đã 3 năm rồi vẫn chưa thấy thì ông Vì có nói: Phải được thuê với diện tích lớn họ mới mở đường, chứ ở xã này chỉ có hơn 400 ha nên chắc họ không mở.


Đối sánh với việc ở xã Tân Minh, chỉ có 200 ha dự kiến được thuê nhưng doanh nghiệp có nguồn gốc nước ngoài này “tích cực” đầu tư làm đường, mặc dù rừng chưa trồng được bao nhiêu. Những việc làm này liệu có cơ quan nào giám sát?


Với vị trí trọng yếu về an ninh quốc phòng như lo ngại của lãnh đạo xã này, không biết mục đích thực sự của doanh nghiêp này có phải là kinh tế không?

Duy Tuấn - Hoàng Sang - Trường Giang

source

http://www40.vietnamnet.vn/vn/xa-hoi/347/tham-nhap-chot-quan-su-noi-innovgreen-trong-rung.html

Sunday 21 November 2010

Hội Gióng đền Phù Đổng và đền Sóc được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể


VIỆT NAM - DI SẢN NHÂN LOẠI -
Bài đăng : Chủ nhật 21 Tháng Mười Một 2010 - Sửa đổi lần cuối Chủ nhật 21 Tháng Mười Một 2010
Hội Gióng đền Phù Đổng và đền Sóc được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể
Tranh dân gian Thánh Gióng
Tranh dân gian Thánh Gióng
Trọng Thành

Ngày 16/11 vừa qua, tại Nairobi (Kenia), UNESCO đã chính thức công nhận 46 di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, trong đó có Hội Gióng đền Phù Đổng và đền Sóc (thuộc Hà Nội). Như vậy, Hội Gióng là di sản phi vật thể thứ năm của Việt Nam được xếp hạng này, tiếp theo Nhã nhạc cung đình Huế, Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, Quan họ Bắc Ninh và Ca trù Hải Dương.

Hội Gióng đền Phù Đổng và đền Sóc vừa được Unesco công nhận là một sự kiện văn hóa quan trọng tại Việt Nam, đặc biệt hơn là quá trình công nhận đã diễn ra hết sức nhanh chóng, gây bất ngờ. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra hiện nay, đối với các chủ thể của di sản, đối với những người quản lý, cũng như công chúng, là bảo vệ di sản khỏi các nguy cơ chính trị hóa, nhà nước hóa, và những ảnh hưởng của du lịch, có khả năng làm di sản bị biến dạng.

Sau đây, mời quí vị theo dõi một số nhận xét của giáo sư Ngô Đức Thịnh, chuyên gia nghiên cứu về văn hóa của các cộng đồng truyền thống tại Việt Nam, nguyên Viện trưởng Viện Văn hóa, và là một trong những người tham gia xây dựng và phản biện hồ sơ Hội Gióng, trước khi trình UNESCO.


Giáo sư Ngô Đức Thịnh
21/11/2010

RFI : Giáo sư có thể cho biết những ý kiến của giáo sư về việc vì sao hồ sơ Hội Gióng lại được Unesco chọn làm di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại ?

Ngô Đức Thịnh : Tôi có thể nói gọn lại có bốn nét đặc sắc như thế này. Thứ nhất, mình cứ quen gọi là Hội Gióng thôi, chứ đây thực ra Hội Gióng là một vùng, với hai điểm chính là Sóc Sơn và Phù Đổng. Phù Đổng, thì anh biết, là nơi sinh ra Đức Thánh Gióng, và Người đã lớn lên ở đó, và đã ra đi đánh giặc. Còn Sóc Sơn là khi Ngài đã đánh giặc xong, thì Ngài lên núi Đá Chồng, Ngài bay về trời. Hiện nay, nhân dịp nghìn năm Thăng Long - Hà Nội, người ta đã dựng lên một bức tượng đồng ở đấy.

Nhưng thực ra cả vùng bán sơn địa đó liên quan đến nghi lễ Hội Gióng. Có hàng chục điểm gắn với các sự kiện, gắn với những di tích, truyền thuyết và lễ hội. Thí dụ những nơi, sau khi đánh giặc xong, Ngài cởi áo giáp, Ngài tắm, Ngài ngồi ăn cơm, trước khi đến Sóc Sơn cởi áo giáp bay lên trời. Có những nơi Ngài đánh giặc đi qua, thì nhân dân đang làm đồng, cũng vác vồ, vác cuốc đi theo Ngài. Theo nhà nghiên cứu Cao Huy Đỉnh, có hàng mấy chục di tích, dân vẫn còn lưu giữ huyền thoại, có nơi còn giữ được cả nơi thờ, và các phong tục.

Cái vùng ngoài cùng của huyền thoại Thánh Gióng còn rộng hơn nữa. Nó kéo dài đến tận phía nam của Hà Nội và phía bắc của Hà Tây (cũ), thí dụ chỗ Pháp Vân, hiện nay vẫn còn nơi thờ Ngài. Ở đấy, lại có một variant (biến thể) khác, liên quan đến Thánh Gióng. Ví dụ, khi Thánh Gióng đã về trời rồi, một lần mẹ Ngài ra sông bị thuồng luồng, một loại thủy thần bắt, thì Ngài quay trở lại giết thủy quái đó để cứu mẹ.

Như vậy, có cả một không gian truyền thuyết, huyền thoại, nghi lễ và phong tục liên quan đến Thánh Gióng.

Điểm thứ hai là : ngoài phân bố trong một không gian như vậy, Hội Gióng còn có một lịch sử rất lâu dài. Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra các trầm tích khác nhau. Về bản chất, ban đầu, Hội Gióng chính là một lễ hội nông nghiệp. Anh biết, thần Sấm chính là bố của Ngài, trong một đêm giông, đã về để lại một vết chân ở vườn cà. Khi bà mẹ, sáng hôm sau ra, ướm chân lên vết chân khổng lồ đó và đã sinh thành ra Thánh Gióng. Ngày lễ hội là vào đúng tháng 4, đang chuyển từ mùa khô sang mùa mưa, và bắt đầu những trận mưa đầu mùa, mở đầu cho một mùa gieo trồng. Cho nên, trong những ngày Hội Gióng, có những đám mây giông, rồi có những tiếng vần vũ, thì người dân vẫn nói : « à, Ngài đã về ».

Trong Hội Gióng, quân của Gióng là nam giới, biểu tượng cho dương, quân của giặc Ân là các cô gái đồng trinh là biểu tượng cho âm. Cuộc xung đột mang tính ta-địch như vậy, chính là một cuộc xung đột và giao hòa giữa âm và dương. Trong vũ trụ luận của người Việt Nam, sự giao hòa âm dương như vậy sẽ mang lại trời đất thuận hòa và sức khỏe cho con người. Có điểm đặc biệt là : sau khi xong trận đánh, cả quân ta với quân địch đều về đền Gióng để ăn khao. Xung đột và hòa hợp, chính là âm dương. Cho nên, lớp sớm nhất của Hội Gióng chính là một nghi lễ nông nghiệp. Sau này, theo chúng tôi biết, đến thời Lý, hoạt động này trở thành một lễ hội mang biểu tượng chống ngoại xâm như anh thấy.

Đấy là cái điểm độc đáo của Hội Gióng, vừa có một không gian rộng, lại vừa có một chiều sâu lịch sử.

Điểm độc đáo này cũng liên quan đến biểu tượng chống ngoại xâm. Phải nói là chống ngoại xâm thì dân tộc nào cũng có. Nhưng có lẽ, hiếm có dân tộc nào biểu hiện tinh thần chống ngoại xâm bằng hình tượng một đứa trẻ lên ba cất tiếng nói đầu tiên là đòi đi đánh giặc để cứu nước. Tôi chưa thấy dân tộc nào sáng tạo ra được hình tượng của một lòng yêu nước, của chủ nghĩa yêu nước như là Thánh Gióng. Ở đây, có một điều cần phải nói rõ : Gióng vừa là biểu tượng của chống ngoại xâm, vừa là biểu tượng của hòa bình. Ngài xuất hiện, Ngài đánh giặc xong, Ngài bay về trời. Điều đó thể hiện khát vọng chống ngoại xâm và khát vọng hòa bình của con người Việt Nam chúng ta. Đó là không phải là vấn đề của riêng dân tộc. Vấn đề Chiến tranh và Hòa bình là một biểu tượng và vấn đề tư tưởng của nhân loại. Chúng tôi đã cố gắng cắt nghĩa như vậy.

Điểm thứ ba độc đáo của Hội Gióng là những tư tưởng như vậy được thể hiện bằng những diễn xướng hết sức độc đáo. Điều này rất hiếm có trong các lễ hội ở đất nước chúng ta. Hàng loạt diễn xướng đã xảy ra. Một số diễn xướng tiêu biểu là múa hát Ải Lao (xuất phát từ sự tham gia của đội múa hát người Lào), trước khi Gióng cất quân đi đánh giặc. Rồi những đám rước đi đánh giặc, và đặc biệt là ba trận đánh của Gióng, diễn ra một cách hết sức biểu trưng, với việc người ta trải ba cái chiếu là biểu tượng của ba cánh đồng. Rồi trên mỗi cái chiếu như vậy, đặt một tờ giấy là biểu tượng của mây, và trên tờ giấy đó, có úp một cái bát là biểu tượng của đồi núi. Gióng đánh giặc bằng cách phất cờ và lấy chân đá tung cái bát đi, để nói rằng sức mạnh của Gióng là sức mạnh bạt núi băng rừng. Các cụ ngày xưa đã nói đến sức mạnh của Gióng, đến việc đánh nhau của Gióng bằng ngôn ngữ biểu tượng như vậy.

Cái biểu tượng cuối cùng độc đáo của Gióng là tính chất nhân dân. Tôi cũng không hiểu vì sao Hội Gióng ở ngay kinh đô Thăng Long hàng nghìn năm nay rồi, mà hầu như không có dấu ấn của nhà nước ở đó. Vốn xưa là hội làng, nhưng Lý Công Uẩn chính là người có công biến Hội Gióng từ một hội có tính chất làng trở thành hội vùng. Lý Công Uẩn trước đó đã từng đi tu tại chùa Kiến Sơ ngay cạnh đền Gióng. Nhưng đặc biệt Hội Gióng thể hiện tính nhân dân. Nhân dân bỏ tiền, nhân dân góp sức, nhân dân tham gia vào tất cả các hoạt động trong lễ hội. Khi chúng tôi đề nghị, Unesco đánh giá rất cao cái này. Unesco tin rằng lễ hội này sẽ được bảo tồn. Vì theo quan điểm của Unesco, chính chủ thế văn hóa mới có thể bảo tồn được văn hóa đó. Mà Hội Gióng vốn là như vậy. Nhiều nơi, các hội bị « nhà nước hóa », bị « sân khấu hóa » rất ghê. Nhưng Hội Gióng vẫn giữ được tính chất nhân dân của nó.

Đây là bốn nét độc đáo của Hội Gióng, tôi nhắc lại, nó không chỉ là biểu trưng mang tính chẩt dân tộc, mà nó còn mang tính chất nhân loại. Unesco công nhận Hội Gióng vì là như vậy.

RFI : Mặc dù hồ sơ này được đánh giá rất cao, nhưng trong quá trình lập hồ sơ và xét hồ sơ, có những khó khăn gì không ạ ?

Ngô Đức Thịnh : Khó khăn nhất là lúc đầu Hà Nội chưa đặt vấn đề này, mà chúng ta đưa ra hồ sơ Hoàng Thành Thăng Long. Nhưng giữa chừng, hồ sơ Hoàng Thành có rất nhiều cái cản trở và có nguy cơ không được công nhận. Cho nên trong tinh thần như vậy, thì chẳng lẽ, trong dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, lại không có « sự kiện » nào. Phải nói rằng, các nhà khoa học đã tập trung nhau lại, trong vòng có hai tháng thôi, để lập hồ sơ này. Nếu anh biết các hồ sơ Ca trù, Quan họ, Cồng chiêng phải mất hai, ba năm, thì Hội Gióng là một hồ sơ nhanh một cách kỷ lục. Chúng tôi đều có nhận định là : thế nào Hội Gióng cũng được, bởi vì khi nghiên cứu nó tôi thấy độc đáo lắm. Cách đây mấy tháng, các nhà báo có phỏng vấn tôi, tôi nói : tất nhiên bây giờ không ai dám khẳng định, nhưng tôi tin chắc rằng sẽ được, vì tính chất độc đáo như tôi vừa nói.

RFI : Có thể nói là nhanh như Gióng ?

Ngô Đức Thịnh : Đúng vậy, nhanh như Gióng.

RFI : Tức là khó khăn không phải nằm ở phía bên kia ?

Ngô Đức Thịnh : Hồ sơ này đưa tới Unesco là họ chấp nhận ngay. Họ không đề nghị mình bổ sung cái gì thêm. Đấy là một cái hết sức độc đáo nữa. Còn các lễ hội khác, các sự kiện khác, sau khi họ chấp nhận rồi, thường là họ gợi ý anh làm cho tôi thêm cái này, cái kia. Hồ sơ Hội Gióng hầu như không phải bổ sung thêm gì. Xin nhắc lại với anh, đây là di sản phi vật thể về lễ hội đầu tiên của Việt Nam chúng ta. Nhưng nói gì thì nói, dù chúng ta rất vui mừng, phấn khởi, nhưng vấn đề hiện nay của chúng ta là phải bảo tồn.

RFI : Vâng, đây cũng chính là điều chúng tôi muốn hỏi giáo sư !

Ngô Đức Thịnh : Nguy cơ đấy ! Tôi rất lo là thế này. Nhân chuyện như thế này, cơ quan này, cơ quan khác, nhà nước nhảy vào, rồi lại chính trị hóa nó đi, rồi nhà nước hóa đi. Đây là một nguy cơ. Nguy cơ thứ hai là du lịch. Tất nhiên là chúng ta phải phát huy Hội Gióng bằng cách gắn nó với du lịch, chuyện này chính là một cách quảng bá cho di sản. Nhưng nếu du lịch vào mà không khéo, có khi lại phá Hội Gióng. Vấn đề là chúng ta nhận thức rõ những nguy cơ đó, mà có cách để bảo tồn, bảo vệ nó, giữ được những giá trị như tôi đã nói, và đưa Hội Gióng vào trong đời sống của người Việt Nam chúng ta. Có một điều thuận lợi là hội này nằm ngay cạnh Hà Nội, và bây giờ nó thuộc về Hà Nội, nhưng thuận lợi đó lại sinh ra nhiều chuyện như tôi đã nói. Những chuyện này mình nhận thức trước, đưa ra cảnh báo trước, để đề phòng những khuynh hướng sẽ làm mất đi giá trị của nó.

RFI : Có một chi tiết, tuy nhỏ, nhưng cũng có nhiều người quan tâm, đó là ở Việt Nam, thường gọi là « lễ hội », nhưng trong trường hợp này lại gọi là Hội Gióng, vậy thì việc bớt đi chữ « lễ » ở đây có bao hàm ý nghĩa gì không ?

Ngô Đức Thịnh : Thực ra các cụ hồi xưa gọi là « hội », có khi gọi là « đám ». Làng tôi « vào đám », tức là « vào hội », thường là vào hội. Cách nói này là của quần chúng. Nên khi sử dụng chúng tôi lấy cái tên dân gian, lấy đúng tên như vậy là hay nhất. Còn « lễ hội » là một thuật ngữ mang tính khoa học.

RFI : Về biểu tượng Gióng có nhiều cách giải thích khác nhau, như những điều giáo sư đã nói ở trên, trong hồ sơ chính thức, đấy là một cách giải thích. Cách giải thích này mang nhiều ý nghĩa tích cực. Nhưng, cũng có những người, những nhà nghiên cứu văn hóa ở Việt Nam, có những phê phán. Ví dụ như họ cho rằng, việc Gióng đi về trời là một hành động rời bỏ xã hội, và cũng có thể là đi về với cái thế giới của quyền lực, mà xa cách với nhân quần.

Ngô Đức Thịnh : Không, tôi cho rằng biểu tượng Gióng về trời là một biểu tượng quá đẹp, để nói rằng : khi có lâm nguy, Gióng với tư cách là một thiên thần, người nhà trời, con của ông thần sấm, đã xuống và ông đã làm hết trách nhiệm của mình là chống giặc và giải phóng cho quê hương. Xong cái việc đó, ông bay về trời một cách thanh thản. Cái hình tượng bay về trời này cực kỳ đẹp. Người ta còn bình luận : ở đó, có một cái gì đó rất là hay. Một con người mà công lao như vậy, làm một việc to lớn, vĩ đại như vậy, nhưng không màng đến sự danh lợi, không màng đến một đòi hỏi gì cả. Và trước khi ông về trời, ông đã cởi bộ giáp để lại, như anh thấy cái tượng bây giờ là một cái thân trần. Nhưng người họa sĩ, một tác giả bức tượng có nói với tôi đã khoác thêm lên mình ông một mảnh vải. Đấy, một con người hoàn toàn vô tư, không danh lợi. Hình tượng này để nói cho đời sau rằng : anh có công đấy, nhưng anh đừng có cậy công, anh đòi hỏi cái này, đòi hỏi cái kia.

Tôi cho rằng hình tượng bay về trời của Thánh Gióng cũng như nhiều vị thần khác cũng thế thôi. Đó gọi là « hóa », cái cách « sinh hóa » của thần. Sinh ra một cách thần kỳ và hóa cũng một cách thần kỳ. Sau này, rất nhiều người khi đánh giặc phải cầu đến Ngài. Thậm chí là khi mẹ bị thủy quái hãm hại, Ngài tức khắc có mặt và cứu mẹ. Người ta cũng nói rằng điều đó thể hiện tư tưởng hiếu thảo của người con. Cho nên hình tượng bay về trời không phải là một hình tượng vô trách nhiệm, đây là hình tượng của một người anh hùng.

RFI : Cách giáo sư giải thích là rất rõ, và nói đúng cái mặt tích cực của biểu tượng. Nhưng dường như, trong các biểu tượng của văn hóa truyền thống có sự đa nghĩa ?

Ngô Đức Thịnh : Tất nhiên là có sự đa nghĩa. Người ta có thể đọc được ở đó nhiều ý nghĩa khác nhau.

RFI : Như vậy, không biết, những người phê phán rằng Gióng đi như vậy, đến với một bầu trời cao như vậy, thì mặc dù vẫn có thể cầu đến khi cần, nhưng dù sao cũng thuộc về một thế giới quá xa xôi có phải không ạ ?

Ngô Đức Thịnh : Ngài có đi đâu đâu. Ngài vẫn ở trên trời, và khi có việc gì đó, sau này, có những người trong cuộc chiến chống ngoại xâm vẫn cầu đến sự trợ giúp của Ngài và Ngài đều có mặt. Ngài có đi đâu đâu, Ngài vẫn ở một nơi nào đó, và vẫn theo dõi vận mệnh của dân tộc, và khi vận mệnh của dân tộc có những hiểm nguy, thì Ngài luôn luôn có mặt. Tôi chưa thấy ai có thể lý giải theo kiểu như vậy. Ngài hoàn toàn không vô trách nhiệm, Ngài không bỏ mặc, Ngài về trời. Tôi cho rằng đấy là một hình tượng rất đẹp và đẹp như vậy nên chúng ta mới có được bức tượng như bây giờ là Thánh Gióng bay về trời.

RFI : Riêng về câu chuyện về bức tượng này liên quan đến một quá trình mới diễn ra. Bức tượng này có sự đầu tư của xã hội, đặc biệt là có sự đóng góp của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, cộng thêm vấn đề trái tim bằng đồng mà người ta đã đặt vào trong bức tượng. Giáo sư nghĩ như thế nào về những chuyện này. Việc có những thứ mới như vậy được thêm vào lịệu có làm thay đổi Hội Gióng không ?

Ngô Đức Thịnh : Tôi cho rằng việc làm trái tim cho Thánh Gióng và cho ngựa không cần thiết tý nào. Nó trần tục quá và không cần thiết. Thần linh không cần phải như vậy. Nhưng thôi, người ta làm với tấm lòng của người ta thì cũng được thôi. Nhưng cái đó theo tôi không quan trọng. Với thần linh không phải là như vậy.

RFI : Theo giáo sư, nếu bức tượng đó đã ra đời rồi, và có trái tim mang tính trần tục như vậy, thì liệu nó có ảnh hưởng gì đến di sản Hội Gióng hiện nay không ?

Ngô Đức Thịnh : Tôi nghĩ rằng không biết nó có ảnh hưởng không, nhưng mà việc đó là không cần thiết, có cũng được, không có cũng được. Có phải đâu là Thánh Gióng phải có trái tim thì mới là như vậy ?! Cái đó không nằm trong tâm thức của người dân. Nhưng mà thôi, người đời muốn làm như vậy thì cũng được. Không có chuyện gì. Cái chính là người ta đã làm cái việc "hô thần nhập tượng". Từ một cái tượng là vật chất thôi, nó đã mang linh hồn của vị thần linh rồi. Và như vậy, người ta đã đạt được cái ước vọng của người ta rồi. Còn có trái tim hay không, điều này không có gì là quan trọng.

RFI : Như vậy bây giờ, có thể hình dung là có hai biểu tượng về Thánh Gióng, một là trong tâm thức của người dân các làng, nơi tổ chức hội đó, và những người không phải là dân cư của những làng đó, và họ tưởng tượng về Thánh Gióng theo kiểu mới ?

Ngô Đức Thịnh : Vâng, cái này rất hay. Hôm tôi được mời lên chứng kiến lễ hô thần nhập tượng, tôi thấy có một điều rất là hay. Sức mạnh của Gióng là của nhân dân, của cộng đồng. Anh biết đấy. Sau khi Gióng đã nghe được lời cầu cứu của nhà vua, Gióng đã gọi sứ giả vào. Lúc đó, Gióng từ một đứa trẻ nằm trong nôi mới vươn mình lên. Mỗi ngày ông ăn 7 nong cà, 3 nong cà, mà cái đó là do toàn bộ dân làng góp sức lại. Cho nên cái sự vươn lên của Gióng trở thành khổng lồ như vậy, đó là sức mạnh của cộng đồng. Và bức tượng được làm như hiện nay, có sự góp sức của cộng đồng. Người góp nhiều, người góp ít. Thí dụ như có một người phụ nữ đã cúng tới mấy chục tấn đồng. Người ta kể với tôi, khi đúc tượng Ngài, có những người rút nhẫn ra ném vào, coi như cúng vào việc đó. Đấy cũng là sức mạnh của cộng đồng. Hai hình tượng, tuy nằm cách xa nhau hàng nghìn năm, nhưng đều nói lên rằng : sức mạnh đó là sức mạnh của dân tộc, sức mạnh của cộng đồng. Không có cộng đồng, thì không có biểu tượng Gióng.

RFI : Xin trân trọng cảm ơn giáo sư.

source

RFI Vietnamese

Saturday 20 November 2010

Cần có thái độ dứt khoát với “bể treo” bùn đỏ (26/10/2010)


Góc nhìn Đại Đoàn Kết

Cần có thái độ dứt khoát với “bể treo” bùn đỏ (26/10/2010)
Người viết bài tạm gọi những thung lũng sẽ được sử dụng chứa bùn đỏ trên “cao nguyên Trung phần”, phục vụ cho dự án bô xít Tây nguyên, là những “bể treo”, có thể chưa đúng hoàn toàn. Nhưng rõ ràng, sau sự cố “bể đập chứa bùn đỏ” được xây dựng kiên cố, có chiến lược và sách lược, “có quách có thành”, có đáy có mái che... ở vùng Ajka thuộc Đông Âu mới đây, không thể không là một bài học cảnh tỉnh cho dự án bô xít Tây Nguyên của chúng ta. Nhiều diễn đàn thu hút sự quan tâm của đông đảo dư luận, nhiều ý kiến tâm huyết của các chuyên gia, các nhà khoa học... từ khi dự án mới manh nha khởi động đến nay, vẫn còn nóng hổi và nguyên nghĩa tính thời sự. Đặc biệt mới đây, gần hai chục người gồm nguyên lãnh đạo cao cấp của đất nước, các học giả, các nhân sĩ, trí thức... đã cùng nhau ký vào một lá đơn kiến nghị khẩn thiết gửi tới lãnh đạo cao nhất của Đảng, Chính phủ nước ta cho dừng dự án bô xít Tây Nguyên, rõ ràng không phải chuyện nhỏ! Tại diễn đàn của Quốc hội đang diễn ra, hay kể cả bên ngoài hành lang trong giờ giải lao, nhiều ĐBQH cũng đang dành sự quan tâm đặc biệt đến vấn đề bô xít Tây Nguyên. Đó rõ ràng là thái độ hết sức nghiêm túc, cầu thị và thực sự có... có tâm, có tầm!

Trong bài viết đăng trên báo Đại Đoàn kết, GS.TS Nguyễn Lân Dũng cho rằng: “Đặc biệt cần nghiêm túc xem xét lại chủ trương khai thác khoáng sản sao cho vừa tiết kiệm đối với các thế hệ con cháu, vừa đảm bảo tuyệt đối an toàn, nhất là sau sự kiện “bùn đỏ” ở Hungary và vụ sập hầm mỏ ở Chilê. Không thể nói ta “tích bùn đỏ” trong thung lũng, nên không nguy hiểm như ở Hungary. Thung lũng trên cao nguyên có nguy cơ đưa “bùn đỏ” theo mạch nước ngầm xuống đồng bằng gây nên sự ô nhiễm vô cùng rộng lớn”. Cùng chung quan điểm này, GS.TS Đặng Hùng Võ, nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên & Môi trường, nói: “Thêm vào đó, vấn đề môi trường là một thách thức lớn. Khi khai thác cần có một không gian rất rộng, chúng ta phải bỏ đi hệ sinh thái ở Tây Nguyên để chứa bùn đỏ. Với một khối lượng bùn đỏ nằm chênh vênh ở trên Tây Nguyên là quá nguy hiểm. Nếu hồ chứa bùn đỏ bị vỡ sẽ dẫn đến việc rò rỉ hoặc thấm vào nước ngầm gây ra thảm họa môi trường rất lớn.”. Không cần phân tích bình luận gì thêm, cứ theo ý kiến của hai nhà khoa học này, “bể treo” bùn đỏ ở Tây Nguyên, đồng nghĩa với những nguy cơ thảm hoạ môi trường đang rình rập và thực sự được báo trước!

Tất nhiên, nói đi cần phải nói lại, như thế mới là sòng phẳng, minh bạch. Bởi vì nếu quyết tâm khai thác cho bằng được bô xít ở Tây Nguyên, đất nước nói chung và doanh nghiệp nói riêng, đều được hưởng những nguồn lợi nhất định. Đó là nguồn lợi trước mắt, về mặt kinh tế và lợi nhuận. Cần nói thêm rằng, ở một đất nước mà từ khi còn học vỡ lòng, nhiều thế hệ học sinh đã từng được nghe giảng rằng: “Nước ta rừng vàng, biển bạc...”, thì nay vẫn trên một tiềm năng như thế, chúng ta đã biết ứng dụng khoa học - công nghệ, biết điều chỉnh, dự báo, định hướng... trong khai thác tài nguyên để mang lại những giá trị vật chất to lớn, hữu ích phục vụ chính chúng ta. Đất nước ngày một phát triển, và chính chúng ta đã không còn thụ động theo kiểu “bao thế hệ học sinh cứ thế chép thuộc bài”! Vấn đề còn lại là, những nguồn lợi tài nguyên to lớn, hữu ích và không thể tái tạo đó, cái cách cư xử, hành xử, cũng như khai thác để mang lại nguồn lợi kinh tế như thế nào? Đây là bài toán không hề dễ và cực kỳ nghiêm túc. Nếu không, sai một ly có thể để nhiều thế hệ phải trả những cái giá quá đắt mà câu chuyện đập Tam Hiệp của nước bạn Trung Hoa, hay bể chứa bùn Ajka của Hungary... đã thực sự là những cảnh báo nghiêm khắc. Dân tộc chúng ta, ngoài những tố chất kiên cường bất khuất, còn có cả cái nhìn và hành động minh bạch, khoa học, hợp lý, thuận tình...

Hay nói đúng hơn, tại sao không chờ đợi con cháu chúng ta, có thể đưa ra những công nghệ sạch hơn để không thải ra bùn đỏ hay đại loại như thế? Lúc đó, khai thác bô xít ở Tây Nguyên, đã mất đi một kilôgam nào đâu?

Thống kê mang tính tương đối, hiện chúng ta đã đầu tư vào dự án bô xít Tây Nguyên khoảng 8.000 tỷ đồng (tương đương 400 triệu USD). Một số tiền không hề nhỏ. Một số tiền có thể giải quyết được nhiều vấn đề trong lúc đất nước đang gặp nhiều khó khăn, ví như thiên tai bão lũ triền miên... Trong bối cảnh như thế, rất cần những quyết sách vừa đảm bảo để đất nước phát triển nhanh và bền vững vừa đảm bảo sự yên tâm tuyệt đối cho hậu thế mai sau, thiết nghĩ rất cần thái độ dứt khoát và nghiêm túc ngay từ bây giờ!

Thanh Tường
source
http://daidoanket.vn/index.aspx?Menu=1451&Chitiet=19006&Style=1

Thursday 18 November 2010

3.600 bộ hài cốt của quân Lữ Gia


Tận mắt hàng ngàn bộ xương trong lòng núi ở Hà Nội 19/11/2010 06:00
(VTC News) - Thật khó có thể ngờ, giữa thủ đô Hà Nội, trong lòng một ngọn núi trồi lên giữa vùng đồng bằng, lại có một bể xương và "suối xương" chứa 3.600 bộ hài cốt.

» Bí ẩn những quan tài cổ và xương cốt trên đỉnh Pha Quen
» Ly kỳ mộ "công chúa" Mai Hoa chết tuổi 20 ở Hà Nội
» Người đàn bà và những đứa con sống nhờ… “mộ biệt thự”
» Ứng xử thế nào với những kỳ quan mộ cổ khổng lồ?
» Đi tìm nguồn gốc những ngôi mộ khổng lồ ở Hải Dương
» Phát hiện khu mộ cổ khổng lồ đang bị phá ở Hải Dương
» Ngôi mộ ở Hưng Yên có phải của Lý Thường Kiệt?
» Bí ẩn di vật trong ngôi mộ nghi là Lý Thường Kiệt
» Bí mật về một “cung điện” dưới lòng đất ở Hải Dương
» Giải mã bí ẩn mộ cây và sự tài hoa của người Việt cổ

Chùa Thầy là danh lam thắng cảnh nổi tiếng của thủ đô. Mỗi năm có hàng vạn du khách tìm đến thưởng lãm, nhưng ít ai ngờ rằng, trong lòng ngọn núi nhỏ bé này lại có nhiều bí mật chưa được khám phá. Hai bí mật lớn nhất cho đến lúc này là con suối trong lòng núi chứa đầy xương cốt, mà người dân quanh vùng gọi là “suối xương” và một cái bể cũng chứa đầy xương, được gọi đơn giản là “bể xương”.

Thủy đình của chùa Thầy.

Theo truyền thuyết mà người dân trong vùng truyền miệng, hàng ngàn bộ hài cốt trong lòng núi là của nghĩa quân Lữ Gia, những người đã hy sinh bi tráng từ 2.100 năm trước. “Suối xương” đầy huyễn hoặc này sẽ chìm vào quên lãng nếu không có cuộc thám hiểm của mấy người nông dân sống quanh chân núi Sài Sơn.

Chùa Thầy nằm trên núi Sài Sơn (xã Sài Sơn, Quốc Oai, Hà Tây). Theo thuyết phong thủy thì núi Sài Sơn là con rồng lẻ đàn (Quái Long), sân chùa là lưỡi rồng, Thủy Đình là hòn ngọc, còn xung quanh thập lục kỳ sơn là quy phượng chầu về.

Giữa một vùng đồng ruộng bằng phẳng ven sông Đáy, bỗng đột khởi 16 tòa đá vôi (hiện chỉ còn 10, vì đã bị đánh mìn nghiền làm ximăng), mà cao nhất, đẹp nhất, linh ứng nhất vẫn là ngọn núi Sài Sơn. Thiền sư Từ Đạo Hạnh, người đứng đầu phái Mật Tông đã chọn Sài Sơn làm nơi trụ trì cho đến ngày ngài hóa. Cũng từ đó, ngọn núi Sài Sơn với bao huyền tích được tô vẽ.

Đường xuống hang Cắc Cớ, nơi có bể xương bí ẩn.

Đứng ngoài cửa Thần Quang động, cô hướng dẫn viên du lịch kể rằng, hệ thống hang được ví như 9 tầng địa ngục. Thần Quang động có ánh sáng chiếu xuống, nơi có con quỷ án ngữ, tuyển các linh hồn lên cõi Niết bàn đầu thai làm kiếp khác, hoặc đày xuống âm phủ cho chó ngao, vạc dầu. Trên đường xuống âm phủ, linh hồn sẽ đi qua tầng thứ 3, nơi có con suối ngầm trong lòng núi, mà theo một số người từng khám phá, có rất nhiều xương cốt.

Đi theo lời tả của cô hướng dẫn viên, tôi lần mò xuống động. Vượt qua cửa hang Cắc Cớ nhỏ hẹp, tối om là đến một khoảng không gian rộng lớn. Một luồng sáng trắng chiếu thẳng từ trên đỉnh núi xuống càng tạo vẻ liêu trai. Người dân trong vùng gọi khu vực này là giếng trời, nơi cửa ngõ giữa thiên đường và địa ngục.

Bể chứa rất nhiều hài cốt.

Phía cuối động, bàn thờ bằng đá với tấm biển gắn dòng chữ “bàn thờ nghĩa quân Lữ Gia” nằm im lìm trong bóng đêm, khói hương lạnh lẽo. Vài đồng tiền lẻ rơi vãi quanh bát hương. Những gói bim bim được các nam thanh nữ tú để ở góc bàn thờ như một sự chia sẻ với người đã khuất.

Phía sau bàn thờ, nơi góc hang, có một cái bể xây sâu vào vách núi. Trên góc bể có một tấm biển đề “Bể hài cốt”. Bể được xây bởi những phiến đá lớn, để hở một ô nhỏ, vừa đủ một người thò đầu vào xem. Bài vị gắn chìm trong thành bể khắc dòng chữ: “Bảo Đại thập tam niên”. Phía bên phải và trái bể có những cột nhũ đá khổng lồ, sắc lên ánh vàng khi chiếu đèn pin vào. Những hướng dẫn viên du lịch thuyết trình rằng, đó là những vị thần canh giấc cho nghĩa quân.

Tôi dùng đèn pin rọi vào vào miệng bể, rồi thò đầu vào nhìn. Những khúc xương trắng hếu còn nguyên vẹn, đủ cả xương tay, xương chân, xương sườn, xương sọ… chồng đống, lộn xộn, không theo thứ tự gì. Một cảm giác ớn lạnh chạy dọc sống lưng. Quả thực, tôi chưa từng nhìn thấy ở đâu có nhiều hài cốt đến vậy.

Hài cốt chất đống trong bể.

Qua bể xương này, có thể hình dung, trước đây, người ta xây cái bể này để gom xương khắp hang động rồi trút vào đó, mà không cần quan quách, tiểu sành, không xắp xếp thành hình hài gì cả.

Trên thành bể xây bằng đá này có tấm bia khắc dòng chữ bằng tiếng Hán với nội dung đại để: “Bể hận ngàn năm mãi khắc ghi”. Qua đó, có thể hiểu, bể xương này được xây dựng để ghi dấu ngàn đời nỗi hận bị xâm lược, mất nước.

Theo các cụ già thông thạo chữ Hán trong vùng, thì nội dung tấm bia này mô tả sơ lược về bể xương. Theo đó, bể được xây sâu xuống lòng núi 15m. Như vậy, với chiều dài chừng 3m, chiều ngang 2m, sâu 15m, “bể hận” này phải chứa hàng ngàn bộ hài cốt mới đầy đến như vậy. Một con số thật khủng khiếp, và sự quên lãng của thế hệ chúng ta với sự hy sinh này cũng thật đáng lưu tâm!

Cứ theo sự dẫn dắt của những câu chuyện trong truyền thuyết mà người dân quanh chân núi Sài Sơn kể, thì chỗ bể xương này mới chỉ là nơi giao hòa giữa địa ngục và thiêng đàng. “9 tầng địa ngục” còn sâu dưới lòng núi mà bắt đầu là cửa hang nhỏ xíu, chỉ vừa một người chui, sâu hun hút, dốc đứng phía sau bể xương khổng lồ.

Trong Đại Việt Sử ký Toàn thư có đoạn: “Lữ Gia (? – 111 TCN), người Việt, gốc Nam Định, là Tể tướng ba đời vua nhà Triệu, nước Nam Việt, từ Văn Vương (136 – 125 TCN), Minh Vương (124 – 113 TCN), Ai Vương (112 – 111 TCN). Ông là người đứng ra nắm chính trường nước Nam Việt những năm cuối cùng để chống lại Hán Vũ Đế, quyết không chấp nhận thân chư hầu. Tuy nhiên, ông đã thất bại trước cuộc xâm lăng của nhà Hán…”. Những hướng dẫn viên du lịch ở đây đều nói rằng, trong hang động có 3.600 bộ hài cốt của quân Lữ Gia, chết từ 1.000 năm trước (không hiểu sao họ lại bớt đi tới 1.100 năm). Điều này chứng tỏ câu chuyện về những bộ xương cốt trong hang động vẫn là một bí ẩn chưa được khám phá.

» Bí ẩn những quan tài cổ và xương cốt trên đỉnh Pha Quen
» Ly kỳ mộ "công chúa" Mai Hoa chết tuổi 20 ở Hà Nội
» Người đàn bà và những đứa con sống nhờ… “mộ biệt thự”
» Ứng xử thế nào với những kỳ quan mộ cổ khổng lồ?
» Đi tìm nguồn gốc những ngôi mộ khổng lồ ở Hải Dương
» Phát hiện khu mộ cổ khổng lồ đang bị phá ở Hải Dương
» Ngôi mộ ở Hưng Yên có phải của Lý Thường Kiệt?
» Bí ẩn di vật trong ngôi mộ nghi là Lý Thường Kiệt
» Bí mật về một “cung điện” dưới lòng đất ở Hải Dương
» Giải mã bí ẩn mộ cây và sự tài hoa của người Việt cổ


Còn tiếp…

Vị Thủy
source
http://vtc.vn/394-269064/phong-su-kham-pha/tan-mat-hang-ngan-bo-xuong-trong-long-nui-o-ha-noi.htm

Những “lưỡi bừa” kiểm soát trục đường 4


221
441
Xã hội
xahoi
/xahoi/
1319932
Những “lưỡi bừa” kiểm soát trục đường 4
1
Article
null
InnovGreen đang làm gì trên biên giới VN?
Những “lưỡi bừa” kiểm soát trục đường 4
,

- Nhóm phóng viên VietNamNet đã đi dọc các tuyến đường độc đạo, là mạch máu giao thông của khu vực Đông Bắc để xem Công ty InnovGreen đang làm gì ở đó.

Kỳ 1: InnovGreen đang làm gì trên biên giới Việt Nam?
Kỳ 2: Sự hoài nghi về dự án trồng rừng của InnovGreen
Kỳ 3: InnovGreen đã tạo “việc làm ổn định cho dân”?

LTS: Tháng 3/2010, loạt bài “Giao đất rừng cho công ty nước ngoài” khởi đăng trên báo VietNamNet đã thu hút sự chú ý của công luận. Thủ tướng Chính phủ đã có công văn yêu cầu các tỉnh tạm ngừng cấp phép các dự án, thẩm tra lại tòan bộ quy trình cấp phép trong việc giao đất rừng cho công ty nước ngoài.

Nhóm phóng viên VietNamNet đã miệt mài cắt rừng, lội suối, xâm nhập các địa bàn trọng yếu tại các vùng biên giới từ Móng Cái (Quảng Ninh) sang tới Tràng Định (Lạng Sơn), quay lại Quế Phong (Nghệ An), lên mạn Đông Giang, Tây Giang (Quảng Nam) để chấm định vị các địa bàn xung yếu, phác thảo nên bức tranh tổng quát và lắng nghe tiếng nói của người dân các địa phương đang được xem là đối tượng hưởng lợi của các dự án trồng rừng này.

Xin giới thiệu loạt bài “Công ty InnovGreen đang làm gì trên biên giới của chúng ta?” để độc giả có thể hiểu thêm về một siêu dự án trồng rừng sát khu vực biên giới.

Khu tam giác kiểm soát đường 18

Theo thông tin chúng tôi có được, Công ty IG thuê đất tại tỉnh Quảng Ninh gồm 7 huyện và thành phố: Hoành Bồ, Ba Chẽ, Tiên Yên, Bình Liêu, Đầm Hà, Hải Hà và thành phố Móng Cái. Trong giấy chứng nhận đầu tư, diện tích được ghi là 100.000 ha (chiếm gần ¼ tổng diện tích đất rừng toàn tỉnh).

Mô tả ảnh.

Con đường tuần tra biên giới, nằm sát cạnh sông Ka Long (phân định biên giới Việt Trung), nối liền Thành phố Móng Cái với xã Hải Sơn, cửa khẩu Bắc Phong Sinh rồi giao với tỉnh lộ 340, nối quốc lộ 18 với cửa khẩu này. Trong "tam giác" biên giới này, Cty InnovGreen có mặt tại 2 xã Quảng Thành và Hải Sơn với diện tích được cấp phép hơn 1000ha đất rừng. Ảnh: Duy Tuấn

Cách thành phố Móng Cái chừng 5km, điểm cuối cùng của đường 18 từ TP. Hạ Long lên, trước khi qua cửa khẩu Móng Cái sang đất Trung Quốc, rẽ trái, có một tuyến đường kẹp dọc sông Ka Long ở phía Việt Nam, là đường tuần tra biên giới.

Đây là một con đường hẹp, được rải nhựa khá đẹp, chạy dọc bờ sông Ka Long, dẫn lên xã biên giới Hải Sơn, phía Việt Nam. Từ trung tâm xã Hải Sơn, chạy chừng vài km nữa là lên tới cửa khẩu Bắc Phong Sinh. Từ cửa khẩu Bắc Phong Sinh, đoạn đường tuần tra này nối với tỉnh lộ 340 chạy ngược về đường 18.

Như vậy, 3 tuyến đường này hình thành một khu tam giác, lấy xã Hải Sơn làm trung tâm kiểm soát. Trong khu vực quản lý của xã này, công ty IG đã vào xin đất tại tiểu khu 346, chia làm 9 khoảnh, tổng diện tích là 1.113,30 ha.

Mô tả ảnh.

Chủ tịch xã biên giới Hải Sơn khi loay hoay mãi vẫn không thể tìm được một văn bản nào lưu ở UBND xã về dự án trồng rừng của Cty IG. Ảnh: GVT

Một điều mà ngay Phó Chủ tịch xã Hải Sơn, ông Phùn Văn Huy, cũng không hình dung được, khi được hỏi về vị trí khu đất mà công ty IG xin đầu tư trên xã mình cách đường biên giới bao nhiêu km.

Ông Huy chỉ ước chừng 6-7km theo đường chim bay từ mép đường biên. Còn nếu muốn vào được tiểu khu 346 này, phải vòng theo tỉnh lộ 340 về gần xã Quảng Thành mới có đường lâm sinh do công ty IG mở, để tiếp cận khu đất này.

Chưa hết, ông Huy còn giật mình hơn khi chúng tôi cung cấp các văn bản, tài liệu về việc giao đất rừng cho công ty này, mà mãi đến tháng 5/2010 ông mới được nhìn thấy, mặc dù đó là một dự án nước ngoài đầu tư trên địa bàn xã ông quản lý. Và tại khu vực tiểu khu 346, có thông tin cho hay, công ty IG đã tiến hành trồng rừng, mở được 22km đường lâm sinh vào khu vực này.

Trong khi đó, theo quy định, toàn bộ các dự án nước ngoài vào khu vực biên giới cần có sự cho phép của lực lượng biên phòng. Hơn vậy, trên địa bàn xã Hải Sơn, vẫn đang có một đơn vị quân đội đóng chốt kết hợp làm kinh tế lâm nghiệp.

Mô tả ảnh.

Cửa khẩu Bắc Phong Sinh, nơi tiếp giáp giữa con đường từ Móng Cái qua và quốc lộ 18 lên. Trên 2 tuyến đường này đều rất gần với địa điểm trồng rừng của Cty InnovGreen tại xã Hải Sơn và Quảng Thành. “Neo” một dự án đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực trồng rừng vào sát nách một đơn vị quân đội, trên địa bàn một xã giáp biên, ngay sát đường tuần tra biên giới, Quảng Ninh sẽ kiểm soát như thế nào? Ảnh: Trường Giang

“Neo” một dự án đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực trồng rừng vào sát nách một đơn vị quân đội, trên địa bàn một xã giáp biên, ngay sát đường tuần tra biên giới, Quảng Ninh sẽ kiểm soát như thế nào?

Chưa dừng lại, tại địa phận xã Quảng Thành (huyện Hải Hà, tỉnh Quảng Ninh), công ty IG tiến hành thuê đất tại khu vực điểm cao, chỉ nằm cách đường 18 chưa đầy 2km. Hiện, bạch đàn đã mọc xanh khu vực cho thuê đất. Theo người dân địa phương cho biết, khu vực công ty IG vào thuê đất tại xã này có tên là Dốc Đỏ, vốn là kho quân khí do một đơn vị quân đội quản lý, nay đã rút đi.

Những “lưỡi bừa” kiểm soát trục đường 4

Từ Tiên Yên (Quảng Ninh) là điểm đầu xuất phát của trục đường 4B sang Lạng Sơn. Huyện đầu tiên của tỉnh Lạng Sơn tiếp giáp với Quảng Ninh là Đình Lập. Tại huyện Đình Lập, Công ty IG có dự kiến vào thuê đất tại 3 xã: Bắc Xa, Đình Lập và Bính Xá, thì 2/3 xã đó là xã giáp biên giới.

Mô tả ảnh.

Ông Nguyễn Đình Phương, Phó Chủ tịch UBND huyện Đình Lập, Lạng Sơn đang cùng với phóng viên VietNamNet định vị các vị trí mà Cty IG có mặt dọc biên giới và trục đường độc đạo số 4. Riêng tại Đình Lập, trong giấy chứng nhận đầu tư do ông Nguyễn Văn Bình, PCT UBND tỉnh ký thì Cty IG có mặt ở 3 xã, trong đó có 2 xã là xã biên giới. Ảnh: Duy Tuấn

Với tổng diện tích dự kiến thuê đất tại tỉnh Lạng Sơn là 63.000 ha, Công ty IG Lạng Sơn dự kiến đầu tư tại 49 xã thuộc 7 huyện: Đình Lập, Văn Quan, Lộc Bình, Chi Lăng, Cao Lộc, Bắc Sơn và Tràng Định. Trong 49 xã đó, có 5 xã giáp biên, gồm Bính Xá, Bắc Xa (huyện Đình Lập), Bảo Lâm (huyện Cao Lộc), Tân Minh, Đào Viên (huyện Tràng Định).

Ngay sau quyết định 405/TTg-KTN (ngày 9/3/2010) yêu cầu tạm ngừng cấp phép, rà soát lại các dự án trồng rừng và nuôi trồng thủy sản của Thủ tướng Chính phủ, UBND tỉnh Lạng Sơn đã ra quyết định tạm ngừng các dự án của Công ty IG trên địa bàn tỉnh này, cho kiểm tra, ra soát lại.

Kết quả, Công ty IG đã có 14 hồ sơ xin thuê đất của 14 xã thuộc các huyện Chi Lăng, Tràng Định, Lộc Bình, Đình Lập, Cao Lộc gửi Sở TN-MT tỉnh Lạng Sơn thẩm định với tổng diện tích xin thuê là 11.187,62ha.

Sở TN-MT tỉnh này đã trình UBND tỉnh 7 hồ sơ đủ điều kiện, tuy nhiên chỉ mới bàn giao thực địa và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (50 năm) 1 hồ sơ cho công ty này tại xã Hữu Kiên (huyện Chi Lăng) với diện tích 485,7ha.

Mô tả ảnh.

Di tích lịch sử Chiến thắng đường số 4 nhắc cho chúng ta nhớ về quá khứ một thời quân dân Việt Nam đã đổ bao xương máu để giữ gìn từng tấc đất cho tổ quốc. Đây là tuyến đường huyết mạch, độc đạo, có vị trí cực kỳ quan trọng, nối các tỉnh biên giới đông bắc Việt Nam. Ảnh: Trường Giang

Trục đường 4B từ huyện Tiên Yên (Quảng Ninh) sang Lạng Sơn, tới TP. Lạng Sơn thì bắt với đường 1A, lên tới Đồng Đăng thì rẽ trái nối với trục đường 4A, từ đó sang tới đất Cao Bằng, với huyện cuối cùng của tỉnh Lạng Sơn tiếp giáp với Cao Bằng là huyện Tràng Định.

Dọc trục đường 4B có 2 địa danh đã lưu vào sử sách Việt Nam: Thất Khê, Đông Khê, nơi mà quân và dân vùng Đông Bắc đã tiến hành những trận đánh quyết tử chặn đường quân Pháp tiến đánh chiến khu cách mạng trong chiến dịch Biên giới 1950.

Thị trấn Thất Khê là thủ phủ của huyện biên giới Tràng Định. Nơi đây, ven đường 4A, ngay cổng vào UBND huyện này, còn lưu tấm bia ghi rõ “Di tích lịch sử Chiến thắng đường số 4”.

Cũng tại huyện này, Công ty IG đã trình hồ sơ xin đất qua Sở TN-MT lên UBND tỉnh Lạng Sơn xin đầu tư cả đất thuộc khu vực phòng thủ của xã Kháng Chiến, đất thuộc điểm chốt quân sự 558 tại xã Tân Minh, mà chúng tôi sẽ đề cập kỹ trong các bài viết sau.

Một cán bộ trinh sát của Tỉnh đội Lạng Sơn không ngần ngại “mách nước” cho cánh phóng viên vốn rất I-tờ về quân sự: “Mở bản đồ toàn tỉnh ra xem xét”.

Còn khi đã đi dọc tuyến đầu tư của Công ty IG tại 2 tỉnh Quảng Ninh, Lạng Sơn, khi nối tất cả các điểm xin đầu tư của công ty này lại, đặc biệt là 49 xã thuộc 7 huyện của tỉnh Lạng Sơn, chúng tôi không tin nổi vào mắt mình: Toàn bộ tuyến đường 4A, 4B hoàn toàn bị kẹp chặt trong những dự án đầu tư của công ty này.

Mô tả ảnh.

Có người nhận xét, nhìn vào bản đồ thì có thể thấy những địa điểm mà Cty InnovGreen đầu tư thuê đất trồng rừng tại 2 tỉnh Lạng Sơn và Quảng Ninh đều nhắm vào các vị trí nhạy cảm về quốc phòng - an ninh, nằm dọc tuyến đường 18, đường số 4 (A, B), QL 1A và các xã biên giới hoặc điểm cao... Ảnh: Duy Tuấn

Nếu nối theo đường cắt kéo, thì cách xin đất của IG chẳng khác gì những lưỡi bừa đang cày qua lại trên trục đường huyết mạch chiến lược này.

Xin nhắc lại: Đường 4 (gồm 4A, 4B, 4C) là trục giao thông huyết mạch của khu vực miền núi Đông Bắc. Còn chính Đại tá Hoàng Công Hàm (nay là Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Lạng Sơn) đã khẳng định với VietNamNet: “Chúng tôi chưa nắm được dự án thuê nhiều ha rừng của người nước ngoài trên địa bàn tỉnh và cũng chưa thấy ai báo cáo về vấn đề đó”.

Trong quá trình thẩm tra, xác nhận của UBND các xã, chấp thuận của UBND các huyện và thẩm định hồ sơ thuê đất của Sở TN-MT, chưa có sự tham gia của cơ quan quân sự và biên phòng đối với khu vực biên giới và khu vực phòng thủ, UBND tỉnh Lạng Sơn sẽ không thể phủ nhận điều này.

Được biết, tỉnh Lạng Sơn đã có quyết định tạm ngừng cấp phép các dự án của Công ty IG, xem xét lại toàn bộ quy trình và kiến nghị rút 5 xã biên giới ra khỏi diện tích dự án xin đầu tư của Công ty IG, như là một tín hiệu vui khi công luận đã lên tiếng cảnh báo.

  • Trường Giang – Duy Tuấn - Hoàng Sang
    (còn nữa)
  • source
  • http://www.vietnamnet.vn/xahoi/201011/Ky-4-Nhung-luoi-bua-kiem-soat-truc-duong-so-4-948060/

Saturday 13 November 2010

TƯỞNG NHỚ ÔNG THỦ-KHOA BÙI-HỮU-NGHĨA


TƯỞNG NHỚ ÔNG THỦ-KHOA BÙI-HỮU-NGHĨA

(1807-1872)
Hàn Lâm NGUYỄN PHÚ THỨ
(Trích dẫn tác phẩm Tìm Hiểu Danh Nhân 1 của Gs Nguyễn-Phú Thứ)
Sau khi thăm Trường Trung-Học Phan-Thanh-Giản trong thành phố Cần-Thơ xong, chúng ta rời nơi đây để đi về hướng thành phố Long-Xuyên, bắt buc đi trên đường Nguyễn-Trãi, qua cầu Cái-Khế, rồi nối tiếp đường Cách Mạng Tháng Tám hướng về đường liên tỉnh 91 để đi : Bình-Thủy, Trà Nóc, Ômôn, Thốt Nốt, An-Giang, Kiên Giang ... khoảng 5 cây số, về phía bên mặt (tay phải), chúng ta để ý sẽ thấy cổng tam quan ghi bằng chữ lớn màu đỏ: M Thủ Khoa Nghĩa 1974 (tọa lạc tại số 442 đường Cách Mạng Tháng Tám, cách cầu Bình-Thủy không bao xa). Được biết cổng này được xây dựng vào năm 1974 bằng ci-măng (le ciment) cốt thép, phần trên được đặt tượng lưỡng long tráng men màu xanh, nâu đỏ.
Cổng mộ Ông Thủ-Khoa-Nghĩa
Từ cổng chánh đi vào khoảng 200 thước theo con đường rải đá ra hướng bờ sông Hậu, thì thấy ngôi mộ nằm về phía tay phải theo hướng Tây Đông giữa khu dân cư đông đúc, toàn bộ khu vực mộ rộng 530 thước vuông, mặt tiền có hàng rào cao 1 thước 40, có lắp ráp bê-tông (le béton) đặt thẳng đứng có chiều dày 0 thước 20 (dưới thời Pháp thuc, Cần-Thơ gồm 10 tổng, 94 xã, mộ Thủ-Khoa-Nghĩa được nằm trên địa phận xã An Bình, Tổng Định-Bảo, sau nhiều lần phân chia địa giới hành chánh, ngày nay mộ thuộc tổ 2, khu vực 2, đường Cách-Mạng Tháng Tám, phường An Thới, thành phố Cần-Thơ).
Bước vào phạm vi mộ, chúng ta thấy các băng ghế đá mài, các chậu hoa mai chiếu thủy được sắp đặt xung quanh khu mộ chánh có diện-tích 44 thước vuông 80, lại có tường rào cao 1 thước bao bọc, giữa các trụ rào được lắp gạch Đồng Nai thông gió, nền mộ lót gạch hoa 2 tấc vuông, bên ngoài vòng rào lót gạch tàu 3 tấc vuông. M phần chánh có chiều dài 2 thước 20 và chiều ngang 1 thước 60 xây bằng đá mài màu hồng theo dạng hình bậc thang, phía trước đặt một lư hương, phía sau được đặt tượng bán thân Ông Thủ-Khoa-Nghĩa bằng ciment sơn màu bạc do nhà điêu khắc Trần-Thanh-Phong hi Văn-Học Nghệ Thuật Tỉnh An-Giang thực-hiện năm 1987.
Sau bệ tượng của Ông, còn thấy tấm bia bằng đá xanh có chiều ngang 4 tấc và chiều cao 8 tấc với hàng chữ Hán khắc rõ nét như sau :
Cách mộ chánh về phía sau khoảng 1 thước là ngôi đền thờ Ông Thủ-Khoa-Nghĩa, ngồi đền thờ này có diện tích 17 thước vuông 22, phần nên cao 9 tấc, có 4 bậc thang bằng gạch đi lên, toàn bộ nền lót gạch hoa, tường xây gạch, mái lợp bằng fibro ciment, hệ thống đòn tay đều dùng thép (sắt ấp chiến lược thời xưa). Bên trong có đặt bàn hương-án để thờ ghi như sau :
Phía bên trái : Trung Can Đồng Ái Quốc.
Phía bên mặt : Nghĩa Khí Hiệp Ưu Gia.
Mặt tiền ngôi đền thờ có đôi liễn quốc ngữ được ghi theo chữ Hán như sau :
Phía bên trái : Ngòi Bút Nghi Chi Rồng Phụng Cao Bay Châu Ngọc Sắc.
Phía bên mặt : Tấm Gương Hữu Nghĩa Trời Trăng Ngời Chiếu Nước Non.
Nơi đền thờ Ông Thủ-Khoa-Nghĩa
Ngoài ra, nếu chúng ta nhìn về phía bên trái ngôi đền thờ chúng ta sẽ thấy hai bức phù điêu bằng ciment thực-hiện để miêu tả lại cảnh bà Nguyễn-Thị-Tồn vợ của Ông Bùi-Hữu-Nghĩa gióng trống kêu oan cho chồng tại tòa Tam Pháp Ty và cảnh ngâm thơ xướng họa giữa Ông Thủ-Khoa-Nghĩa và các bạn Ông trong hội "Tao Đàn Bà Đồ".
Hơn nữa, chúng ta thấy tấm bia bằng đá mài ghi lại Di Tích Lịch Sữ Văn Hóa Mộ Thủ-Khoa Bùi-Hữu-Nghĩa như sau :
Bùi-Hữu-Nghĩa hiệu Nghi-Chi, sinh năm Đinh-Mão1807
tại thôn Long - Tuyền, tổng Định -Thới, phủ Định -Yên, trấn
Vĩnh -Thanh nay thuộc phường An -Thới, thành phố Cần -Thơ
Tỉnh Cần-Thơ, Ông đỗ thủ khoa kỳ thi hương năm Ất Vị (*)1835
và được bỗ nhiệm làm tri huyện Trà-Vang ngày 21 tháng 01 năm
1872, Ông mất tại quê nhà , thọ 65 tuổi.
Bùi-Hữu-Nghĩa là mt vị quan thanh - liêm, mt nhà thơ,
nhà soạn tuồng nổi tiếng của Miền Nam cuối thế - kỷ XIX.
Ông đã để lại cho đời nhiều tác - phẩm có giá - trị góp phần
không nhỏ vào kho tàng văn - học VIÊT -NAM. Cuộc đời và
sự - nghiệp của Ông là tấm gương sáng của sự công minh
chính - trực đấu - tranh chống áp - bức cường - quyền đáng để
cho hậu thế học - tập và tôn - vinh.
Ngày 25 tháng 01 năm 1994 Bộ Văn - Hóa Thông -Tin đã
ra quyết - định công nhận mộ Thủ Khoa Bùi - Hữu - Nghĩa
là một di -tích lưu - niệm danh nhân.
(*) Năm Ất Vị 1835 xin hiểu là năm Ất Mùi, bởi vì xưa kia chữ Mùi có thể là chữ kỵ quý của thân-tộc dòng họ nhà vua chăng?, cho nên tránh không dùng. Hơn nữa, trong Thập Nhị Địa Chi, không có con vật nào tên Vị và chữ Mùi Vị là cận kề dễ hiểu, nên thay chữ Mùi thành Vị là thế đó. Hơn nữa, nếu chúng ta lấy năm 1835 Dương Lịch đổi sang năm Âm Lịch thì có kết quả là năm Ất Mùi (nếu cần xin xem 4 phương cách đổi từ năm Dương Lịch sau Công Nguyên sang năm Âm Lịch trong tác phẩm Tử Vi & Địa Lý Thực Hành cùng tác giả Nguyễn Phú Thứ).
Như đã thấy ở trên kia sơ lược về thân-thế và sự-nghiệp Ông Bùi-Hữu-Nghiã, chúng ta không thể dừng ở đây mà cần phải tìm hiểu thêm. Được biết, Ông là con của Ông Bùi-Hữu-Đá, sống bằng nghề chài lưới đủ ăn, không được giàu có, nhưng song thân Ông quyết tâm tạo điều-kiện cho Ông ăn học, bởi vì thấy Ông có bản tính thông minh lại hiếu học, nên mới trình-bày hoàn cảnh gia-cảnh với Ông xã-trưởng Ngô-Khắc-Giản, để nhờ giúp đỡ và được Ông Giản đồng ý đỡ đầu, giới-thiệu lên Ông lên Biên-Hòa để thọ giáo với thầy đồ Hoành tức Ông Nguyễn-Phạm-Hàm (một cộng sự viên của thủ lãnh Ông Lê-Văn-Khôi, con của Ông Tả Quân Lê-Văn-Duyệt hồi trước). Trong thời-gian học tại Biên-Hòa, Ông ở trọ nhà Ông Nguyễn-Văn-Lý, làng Mỹ-Khánh, tổng Chánh-Mỹ-Thượng, Ông được gia-đình Ông Lý thương mến giúp đỡ, bởi đức tính biết trọng kính làm người lớn và hiếu học. Vì vậy, Ông có nơi ăn học và được thầy dạy tận tình, cho nên sự học của Ông rất tiến bộ vượt bực hơn các bạn đồng môn. Đến tháng 2 năm Ất Mùi 1835, Ông được thầy cho ra ứng thí khoá thi hương tại trường Gia-Định và Ông được đỗ giải-nguyên tức đậu thủ khoa mới 28 tuổi. Từ đấy, danh tiếng của Ông vang lừng khắp lục tỉnh, trong dân gian thường gọi là Ông Thủ Khoa Nghĩa cho gọn thay vì gọi Ông Thủ-Khoa Bùi-Hữu-Nghiã đất Long-Tuyền (Cần-Thơ).
Riêng gia-đình Ông Nguyễn-Văn-Lý rất mừng rỡ, làm tiệc thết-đãi vị tân khoa cùng ngỏ ý gả đứa con gái đầu lòng là cô Nguyễn-Thị-Tồn rất đẹp và lại thấm nhuần tứ đức tam tòng cho Ông. Một năm sau tức năm Bính Thân 1836 Ông đi tham dự khóa thi hội ở Huế, nhưng không may thi rớt. Tuy vậy, Ông vẫn được vua Minh-Mạng (1820-1848) ưu ái, cho vào triều đình Huế tập sự tại Bộ Lễ một thời gian, rồi thấy tài đức của Ông, nên được cử đi xứ Xiêm (Thái-Lan ngày nay). Khi trở về nước, Ông được bỗ-nhậm làm Tri Huyện Phước-Chánh, thuộc Phủ Phước-Long (Biên-Hòa). Thời gian này Ông kết-hôn cùng cô Nguyễn-Thị-Tồn con gái của Ông Nguyễn-Văn-Lý là người Ông hứa hôn trước kia. Ông có bản tánh thanh liêm, chánh trực lại thông minh và thương người, cho nên Ông nhiều lần xử kiện đã thẳng thắng từ chối hối-lộ và còn nghiêm-trị kẻ gian hoặc hống hách hà hiếp dân lành vì cậy quyền thế. Bởi xử như thế đã làm mất uy tín của bọn tham-nhũng ở cấp đầu tỉnh, để rồi Ông bắt buộc bị đổi vào ngày 21-1-1872 đi làm Tri Huyện Trà-Vang tức Trà-Vinh thuộc tỉnh Minh-Hải ngày nay. Được biết, Trà-Vang là địa danh có nhiều người Miên tức Thổ (Khmer), sống thành Sóc (làng ấp) và người Hoa tức Tàu sống cùng với bà con người Việt sống gắn bó với nhau, cho nên ở đây có những thế hệ sau đầu gà, đít vịt (tức lai Tàu Miên) rất đẹp. Nơi này, có một con rạch tên Láng Thé rất có nhiều tôm cá là nguồn lợi đáng kể cho dân chúng tại đây sanh sống. Trước kia, chúa Nguyễn-Ánh năm 1783 bị nhà Tây-Sơn đánh đuổi, nên đã về nơi này ẩn nấu, được người Miên giúp đỡ lương-thực, còn tình nguyện theo để tận tình phò chúa nữa. Do vậy, sau khi chúa Nguyễn-Ánh lên ngôi vào tháng 5 năm Nhâm-Tuất 1802, lấy quốc hiệu là Nam Việt, đóng kinh đô ở Phú Xuân Huế (Huế ngày nay), tức Thánh Tổ Gia-Long Nguyễn-Phúc-Ánh (1802-1819) đã xuống chiếu miễn thuế vĩnh viễn cho tất cả người Miên ở rạch Láng Thé khai thác hoa lợi tôm cá. Đến đời vua Tự-Đức (1847-1883) bọn quan lại nhà Nguyễn tham nhũng trắng trợn như : Tổng-Đốc Trương-Văn-Uyển hiệp với Bố Chánh Truyện là quan đầu Tỉnh Vĩnh-Long nhận hối lộ của người Hoa, rồi cấp giấy bán rạch Láng Thé cho họ để độc quyền khai thác và còn cấm các người Miên không được khai thác tôm cá đã được vua Gia-Long đồng ý ban cho trước kia. Từ đó, các người Miên bị áp-bức càng ngày càng nhiều, không thể khai thác nguồn lợi sanh sống trước kia, làm cho cuộc sống chật vật không thể chịu nổi, mãi đến tháng 10 năm Mậu-Thân 1848, một số người Miên do Ông Nhêsrok trưởng Sóc trong vùng cầm đầu kéo đến gặp quan tri huyện Bùi-Hữu-Nghĩa để xin xét xử. Ông Bùi-Hữu-Nghĩa dựa vào chiếu chỉ của Vua Gia-Long mà phân giải để binh vực quyền lợi cho các người Miên, Ông nói :"Rạch Láng Thé đã được đức Thánh Tổ Gia-Long đã xuống chiếu miễn thuế vĩnh viễn cho tất cả người Miên ở rạch Láng Thé khai thác hoa lợi tôm cá. Nay có ai lớn hơn vua phê giấy bán rạch ấy thì các ngươi phải chịu, còn ai nhỏ hơn vua dám cả gan làm việc ấy thì dù chém nó đứt đầu cũng không sao cả". Sau khi được quan tri huyện xử tình lý công minh, các người Miên rất mừng cùng quyết-tâm đoàn-kết giành lại quyền làm chủ rạch Láng Thé, đưa đến cuộc xô xát giữa các người Miên và Hoa, làm cho bên người Hoa bị chém thiệt mạng gần 10 người, còn bên người Miên chỉ bị thương nhẹ và bị bắt một số giam. Nhân cơ hội này, Bố Chánh Truyện vì thù cá nhân trước kia, (có một lần Ông Thủ Khoa-Nghĩa sai lính đánh em vợ Bố Chánh Truyện về tội dựa thân thế quan trên đã láo xược trước huyện đường và còn gởi mấy roi về cho Bố Chánh Truyện để dạy em vợ. Bố Chánh Truyện rất tức giận hành động này, nhưng chẳng dám hở môi và luôn luôn chờ cơ hội trả thù) nên tiếp tay với Tổng Đốc Trương-Văn-Uyển bắt tri huyện Bùi-Hữu-Nghĩa gởi về Gia-Định, rồi làm sớ tâu trình vu khống về triều để kết tội Ông, xúi dân làm loạn để giết người. Vua quan triều đình Huế thấy tờ sớ, không cần điều-tra sự việc, vội-vàng chiếu chỉ kết-án tử hình ÔngThủ-Khoa-Nghĩa.
Biết rõ bọn Uyển và Truyện có ý hại chồng, Bà Nguyễn-Thị-Tồn đứng trước nỗi ức oan tình đó, bèn thu xếp ra triều đình Huế để minh oan cho chồng bằng ghe đi từ Định-Tường ra thẳng Huế, mặt khác nhờ quan Kiệm, người em bạn dì của Ông Thủ-Khoa-Nghĩa lo chận giữ chiếu chỉ của triều đình Huế gởi vào Gia-Định, để có đủ thì giờ giải oan. Khi đến nơi bà tìm ngay tư dinh Ông Phan-Thanh-Giản đang làm Thượng-Thơ Bộ Lại để trình bày nổi oan ức đó, đồng thời tường-thuật các lộng hành, tham nhũng của các quan tỉnh Vĩnh-Long. Kế đến, bà nhờ Ông Phan-Thanh-Giản chỉ cách đến Tam Pháp Ty để kêu oan, Ông Phan-Thanh-Giản bằng lòng hướng dẫn tận tình giúp đỡ và còn làm giúp một tờ cáo trạng bày tỏ nỗi oan ức của chồng lên nhà vua. Rồi bà phải đợi đến đầu canh năm tức khoảng từ 3 giờ đến 5 giờ sáng, thuộc giờ Dần, bà đến Tam Pháp Ty (*) ở trong thành Huế để mạnh dạn đánh ba hồi trống, rồi quỳ trước sân rồng để dâng sớ cáo trạng, thì được Ông đi lệ chạy đến thâu tờ cáo trạng đem vào Ông quan trực nội thành để chuyển dâng lên vua Tự-Đức xem, kế đến nhà vua chuyển giao cho Tam Pháp Ty xét xử và vua là người phán quyết chung thẩm bản án như sau : "Tha tội tử hình cho tri huyện Bùi-Hữu-Nghĩa, nhưng phải ra trận đoái công chuộc tội"
(*) là tòa án để xử đặc-biệt nhứt nước về việc lớn và có án nặng không thể minh oan với ai, nạn nhân hay thân nhân chỉ đến đánh trống và dâng sớ cáo trạng, được gọi là kích cổ đăng văn tức "đánh trống cho người trên nghe". Cái trống này được đặt trước Tam Pháp Ty để dành cho người bị oan ức để đánh trống và dâng sớ kêu oan đến nhà vua vào giờ Dần mà thôi. Tòa án Tam Pháp Ty này không có nhóm định kỳ, gồm có nhân viên cao cấp của: Bộ Hình, Đô Sát Viện và Tự Đại Lý xét xử trước, rồi mới trình nội vụ lên nhà vua để chung thẩm bản án. Được biết, Tòa án Tam Pháp Ty này tạm ngưng hoạt động từ vua Đồng-Khánh (1885-1888) vì bị giặc Pháp xâm lăng đưa đến hiệp ước Ất Dậu 1885 và đến năm 1901 thuộc vua Thành-Thái thứ 13 mới được hoạt-đng trở lại đến năm vua Thành Thái 18 (1906) mới bỏ hẳn, để giao việc xét xử cho Bộ Hình (vua Thành-Thái trị vì 1889-1907).
Nhìn lại bản án chung thẩm của Tam Pháp Ty đối với Ông Thủ-Khoa-Nghĩa, chúng ta không khỏi bùi-ngùi cho số phận quan dân dưới thời phong kiến vua chúa ngày xưa, không những chỉ có Ông Thủ-Khoa-Nghĩa mà còn thấy Ông Phan-Thanh-Giản cũng bị xử án một cách bất công như thế, bởi vì nhà vua nghe theo lời nịnh thần để đưa đến bản án khắc nghiệt như thế. Đáng lý ra, Ông Thủ-Khoa-Nghĩa không những được tha bổng mà còn được khen thưởng trọng hậu, bởi vì : "Ông Thủ-Khoa-Nghĩa đã thi hành đúng phép của Thánh Tổ Gia-Long Nguyễn-Phúc-Ánh tức Ông cố của vua Tự-Đức ban cho tất cả người Miên sanh sống ở Rạch Thé". Đàng này, vua Tự-Đức chỉ "Tha tội tử hình cho Ông Thủ-Khoa-Nghĩa, nhưng phải ra trận đoái công chuộc tội" tức thuyên chuyển ra trận đi nơi khác để đoái công chuộc tội, để bọn quan lại đầu tỉnh Vĩnh-Long tiếp tục tham nhũng, lộng quyền, để rồi 6 tỉnh Miền Tây Nam Kỳ lần lượt lọt vào tay giặc Pháp và vua Tự-Đức lại trút tất cả tội tình cho công thần Phan-Thanh-Giản, mà không thấy việc làm bất công đưa đến cái tội mất dân mất đất của mình? Nhân đây, xin trích bài thơ của Ông Thủ-Khoa-Nghĩa viết khi bị giam ở Tỉnh Vĩnh-Long như sau :
Nhượng chăng là nhượng kẻ cậy voi,
Lục đục thường tài cũng một nòi,
Mờ mịt bởi mây che bóng nguyệt,
Âm thầm vì trống lấp hơi còi,
Kìa câu ích kỷ kinh còn tạc,
Nọ kẻ thi nhân thánh hỡi roi!
Lấn thấn hết suy rồi đến thới,
Ngày qua tháng lại bước đường thoi.
Đây là bài thơ Ông Thủ-Khoa-Nghĩa đã gói trọn tâm tư của mình, phải nhường nhịn để vâng mạng cho triều đình, chớ bọn quan lại đầu tỉnh Ông xem như không có tài cán gì mà sợ, bởi vì bị bọn họ vu cáo, vì thế nỗi oan ức này chưa được nhà vua thấu đáo. Hơn nữa, Ông chỉ là quan tri huyện nhỏ, nếu có giải bày cũng không được các quan thượng ty nghe theo, cho nên Ông chỉ tin tưởng và hy vọng thời gian sẽ làm sáng tỏ nỗi ức oan này khi vua thấy được. Quả thật, ý thơ trên đã được giải-bày đúng như chung thẩm của nhà vua.
Riêng Bà Từ Dũ (*) mẹ của Vua Tự- Đức, được tin có Bà Nguyễn-Thị-Tồn là vợ của tri huyện Thủ-Khoa-Nghĩa, quê ở Biên Hoà (Nam Kỳ) ra tận triều đình Huế để đánh trống Tam Tòa kêu oan cho chồng, Bà lấy làm cảm-động một người đồng hương có nghĩa với chồng, nên bèn mời Bà Thủ-Khoa-Nghiã vào triều đình để tỏ lời khen ngợi và ban cho một tấm bản có chạm 4 chữ vàng : "Liệt Phụ Khả Gia".
(*) Hoàng-Thái Hậu Từ-Dũ (1810-1901) tức Bà Phạm-Thị-Hằng (có sách ghi Hàng?), quê huyện Tân-Hòa, Tỉnh Gò-Công (thuộc Gia-Định thành). Con của Phạm-Đăng-Hưng Thượng Thơ Bộ Lễ, được tuyễn vào cung làm vợ Hoàng-Tử Miêng-Tông tức Vua Thiệu-Trị sau này và sanh được hoàng tử Hồng-Nhậm tức vua Tự-Đức.
Ngoài ra, với sự kiện việc này, trong dân gian ở Huế đã truyền khẩu bài ca dao để nói lên địa-danh thật đầy đủ và ý nhị như sau:
Tỉnh Thừa Thiên dần hiền cảnh lịch,
Non xanh, nước biết, điện ngọc đền rồng,
Tháp bảy từng, Thánh Miếu, Chùa Ông,
Chuông rung Diệu Đế, Trống khua Tam Tòa,
Cầu Trường Tiền sáu nhịp bắc ngang,
Tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ,
Đợi khách âu ca thái bình.
Bà Nguyễn-Thi-Tồn cứu tử được chồng, rời kinh đô Huế trở về quê-hương Biên-Hòa, rồi thời gian ít lâu bị lâm bịnh qua đời tại nhà cha mẹ ruột (Nhưng, có tài liệu nói : Trên đường Bà Nguyễn-Thị-Tồn ra Huế để minh oan cho chồng, Bà bị hiếp dâm, khi trở về, Bà lấy làm xấu hổ nên tự vận? xin kể ra đây để xin quý bậc cao minh thẩm xét và góp ý hư thực thế nào? ), để lại ba người con là : Bùi-Thị-Xiêm, Bùi-Hữu-Vàng và Bùi-Hữu-Tú (Ông Bùi-Hữu-Tú là đứa con út dòng thứ nhứt, đã thấy ghi trên tấm mộ bia bằng chữ Hán tại mộ Ông Thủ-Khoa Nghĩa ngày nay).
Khi bà mất, Ông Thủ-Khoa-Nghĩa đang ra trận đoái công chuộc tội tại đồn Vĩnh-Thông thuộc huyện Hà-Âm tức Tịnh-Biên Châu-Đốc (An-Giang ngày nay) với chức Thủ Ngự, để dẹp yên các cuộc nổi loạn của dân Miên, rất gian khổ và Ông đã lập được thành tích đáng kể, nên được thăng chức Phó-Quản-Cơ.
Quan tài của Bà phải chờ đến khi Ông Thủ-Khoa-Nghĩa trở về đọc văn tế cho vợ, với tình thương, lòng kính trọng và sự cảm-ơn can trường đã cứu Ông ... đến chết Ông chưa được đền đáp, xin trích dẫn như sau :
"Phụng lìa đôi chếch mác, đừng nói sửa sang giềng mối, khi túng thiếu manh quần tấm áo, biết lấy ai mà cậy nhờ. Gà mất mẹ chít chiu, đừng nói nhắc biểu học hành, khi lạt thèm miếng bánh đồng hàng, biết theo ai mà thỏ thẻ. Phước nhà đặng rảnh mình cao sĩ, vượt mấy sông em dắt chút mẹ già, màn loan sao vắng bóng tiên nga, vầy một ngõ anh khóc cùng ba trẻ. Gươm thân ái không mài lẻm lẻm, người ta mặn nồng chồng vợ, bao đành đứt mối tình duyên. Ngựa quang âm không giậm bỗng đùng đùng, người ta mắc cuộc tai nàng bao nỡ đứt đường sinh tử. Anh để nàng chẳng bằng tiền bằng của mà bằng cái tư lương. Anh giết nàng chẳng bằng gươm bằng dao mà bằng niềm khóc lụy ... Ngã bần khanh độc năng trợ, ngã oan khanh độc năng minh, triều quận công xung khanh thị phụ. Khanh bệnh ngã bất năng dưỡng, khanh tủ ngã bất đắc táng, giang sơn ưng tiếu ngã hà phu... (trên đây trích-dẫn một số văn tế vợ của Ông Thủ-Khoa-Nghĩa, không biết có đúng hoàn toàn hay không? xin các bậc cao minh bổ khuyết cho, thành thật đa tạ trước)."
Ông Thủ-Khoa-Nghiã, khi về trấn nhậm ở Hà-Âm, đã thấy những đống xương do triều đình nhà Nguyễn đánh với các nước lâng bang: Xiêm (Thái-Lan), Lào và Cao-Miên (Khmer) suốt 20 năm (1827-1847) thuộc hơn giữa đời vua Minh Mạng (1820-1840) đến cuối đời vua Thiệu-Trị (1841-1847) bước vào vua Tự-Đức (1847-1883) mới chấm dứt, đã tàn sát không biết bao nhiêu người dân vô tội, rất thê lương và ngậm ngùi, nên Ông cảm tác bài thơ Kinh Quá Hà Âm như sau :
Mịt mù mây đen kéo tối dầm,
Đau lòng thuở nọ chốn Hà Âm,
Đống xương vô định sương phau trắng,
Vũng máu phi thường cỏ nhum thâm,
Gió trốt dật dờ noi chiến lũy,
Đèn trời leo lét dặm u lâm,
Nghĩ thương con tạo sao dời đổi,
Dắng dỏi trên đường tiếng dế ngâm.
Sau khi Bà Nguyễn-Thị-Tồn qua đời, những ngày còn lại Ông tiếp tục ở đồn Vĩnh-Thông, rồi Ông tục huyền với Bà Lưu-Thị-Hoán (*) con gái của Ông Xã-trưởng Lưu-Văn-Dụ, sau này sanh được 4 người con (con gái đầu không rõ tên gì?) kế đến 3 người con trai là : Bùi-Hữu-Khánh, Bùi-Hữu-Sanh, Bùi-Hữu-Út.
(*) Sở dĩ có tên Hoán hay Hoàn có lẽ do nguyên nhân sau : Ông Thủ-Khoa-Nghĩa phải lòng cô Lưu-Thị-Chỉ, con của Ông Lưu-Văn-Dụ, đám cưới sắp cử hành, thì Ông có việc phải đi xa, nên nhờ chị hai là Bà Bùi-Thị-Thừa (chị ruột) đi rước dâu. Đến khi Ông trở về mới hay cô dâu không phải là ý trung nhân, biết đàng gái tráo hôn, đem người chị là cô Nguyễn-Thị-Ý thay thế người em là cô Lưu-Thị-Chỉ, Ông vô cùng hối tiếc nhưng việc đã dĩ lỡ rồi, nên đành hận và đổi tên Ý ra tên Hoán hay Hoàn (Hoán có nghĩa là đổi, ý nói đã đổi từ cô Chỉ sang cô Ý hoặc là Hoàn có nghĩa hoàn lại tức là đàng gái đem cô Chỉ giao lại cho Ông Thủ-Khoa-Nghiã và bắt cô Ý về?. Đó là, sự phân tách cho vui vậy thôi, chớ giờ đây mấy ai biết sự trắng đen như thế nào?). Vì vậy, sau này Ông viết tuồng "Kim Thạch Kỳ Duyên" đã gởi trọn tâm tư cuộc đời của Ông giống như truyện Lục-Vân-Tiên của Ông Nguyễn-Đình-Chiểu và Ông đã nặng nề trách con người manh tâm tráo hôn chăng? ví như sau :
" Thối hôn mới mượn kẻ trá hôn,
Bất giá lại kiếm nơi cải giá..."
Hơn nữa tuồng này đã mượn cốt truyện đời nhà Tống bên Tàu để nói lên tâm sự của mình, bằng chứng Bà Thạch-Vô-Hà là hiện thân của Bà Nguyễn-Thị-Tồn, một nghĩa phụ đã vượt biển Nam Hải về kinh đánh trống để minh oan cho chồng. Riêng Ông Kim-Ngọc chính là hiện thân của Ông Thủ-Khoa-Nghiã đã đậu trạng nguyên và được triều đình giao phó việc tiểu trừ bọn giặc Hóa Long nơi biên ải ... Nói tóm lại, vở tuồng Kim-Thạch Kỳ-Duyên, đã thành công về hai phương diện văn-chương và kỹ-thuật diễn đạt một mối duyên kỳ lạ, lại trân quý như hạt kim cương. Truyện này viết rất công phu không kém truyện Lục-Vân-Tiên của Ông Nguyễn-Đình-Chiểu viết, có thể nói là một tuyệt tác và phổ thông nhứt ở Nam Kỳ Lục Tỉnh lúc bấy giờ vào giữ thế kỷ XIX.
Trong thời gian ở biên thùy xa xăm, gần biên giới Cao-Miên, nơi này thường xảy ra rất nguy hiểm cho tánh mạng Ông, có một lần bị lính Miên tập kích bất ngờ, Ông bị bắt sống đưa về Cao-Miên giam tai U-Đông. Vua Cao-Miên lúc ấy là Ông An-Đuông vốn đã biết danh tiếng quan tri huyện Thủ-Khoa-Nghĩa, qua vụ rạch Láng-Thé binh vực người Miên nên phải mất chức và bị đày nơi đây, nên mới bị lính Miên bắt, cho nên Ông vua Cao-Miên có cảm-tình đặc-biệt với Ông, tha tội chết còn cho ăn uống, rồi mới cho người người đưa Ông về nước. Kế đến, Ông được tin đứa con gái đầu lòng là Bà Bùi-Thị-Xiêm qua đời vào đúng ba năm tròn sau vợ Ông mất, trước cảnh đau lòng này, Ông trở về trước để lo tang lễ cho con, thăm mộ vợ và sau thăm lại quê nhà. Ông làm bài văn tế cho con gái, xin trích dẫn như sau :
Thảo với Cha, lành với Mẹ như bát nước không xao;
Ra cùng xóm, ở cùng làng, ước hột cơm chẳng cắn;
Chị hay niềm, em hay nở, ai mà chẳng dấu chẳng yêu;
Ăn bữa trước, lo bữa sau, mẹ đà khỏi dò dặn;
Thấy con trẻ, Cha mừng hết lớn, mừng thì mừng, mà dạ hãy
băng sương;
Nghe con rên, Cha sợ muốn điếng hồn, sợ thì sợ, chạy trời sao
khỏi nắng;
Khi nào biết làm giọng ảnh giọng e mà đức tớ, có giận thì la cái
giống nó lộn rồng;
Đời nào cầm roi vọt mà đánh em, có giận thì mắng cái thằng sao
nó rắn;
Nhớ tiếng con cười lời con thốt,càng thêm chua xót đời con;
Đường ra ngõ vào còn đó, thúng may rổ vá còn đây, con đi đâu
cho rêu cỏ mọc xanh? ...
Ngoài ra, khi ra thăm m người vợ Ông có làm bài thơ Khóc Vợ, xin trích dẫn như sau :
Đã chẵn ba năm mới đặng (*) thăm,
Màn loan đâu vắng bặt hơi tăm,
Gió đưa đâu thấy hình dương liễu,
Đêm vắng ai hoài tiếng sắt cầm
Chồng nhớ vợ lòng tơ bối rối,
Con thương mẹ lụy ngọc tuôn dầm,
Có linh chín suối đừng xao lãng,
Thỉnh thoảng về thăm lúc tối tăm.
(*) đặng tức là được. Bởi vì, ngày xưa thường kiêng cữ tên của dòng họ vua hay người lớn tuổi hay quan chức trong làng xã.
Rồi từ đó, Ông mượn bài thơ cây vông để bày tỏ nỗi lòng chua chát của mình, bởi vì Ông "sanh bất phùng thời " không khác cây vông, xin trích dẫn như sau :
Uổng sanh trong thế mấy thu đông,
Cao lớn làm chi vông hỡi vông,
Da thịt càng già càng lộp xộp,
Rut gan, chẳng có, có gai chông,
Rường xoi cột trổ chưa nên mặt,
Dậu mỏng rào thưa phải dùng lòng,
Mới biết cây nào sanh cây nấy,
Xuân qua bớn tớn cũng đâm bông.
Sau bài thơ cây vông Ông lại làm tiếp theo bài thơ cây bần và câu cá, xin trích dẫn như sau :
Cao lớn làm chi Bần hỡi Bần !
Uổng sanh trong thế đứng chần ngần,
Lá xanh tợ liễu cành thưa thớt,
Bông bạc dường mai nhụy sượng sần,
Quyến luyến bầy Cò theo sập sận,
Chiêu qui đàn Khỉ tới dần dần,
Rường soi cột trổ chưa nên mặt,
Cao lớn làm chi Bần hỡi Bần!
Và bài thơ câu cá Ông tự ví mình như xưa kia Ông Lã Vọng chưa gặp Ông Văn Vương, nên ngồi câu cá trên sông Vị không có lưỡi câu, xin trích dẫn như sau:
Danh lợi màng bao chốn lửa hầu,
Thanh nhàn quen thú một cần câu,
Giăng đường chỉ mảnh dong khơi rng,
Thả miếng mồi thơm vực cạn sâu,
Khói nước năm hồ tình cả đẹp,
Gió trăng kho cũ cảnh riêng màu,
Bá vương hội cả dầu chưa gặp,
Thao lược này ai biết được đâu.
Với hoàn cảnh thương tâm của Ông như: Vì phải ở tiền đồn biên thùy heo hút, không xứng đáng với kiến thức, lại nữa thấy cảnh quan trường đầy tham nhũng bất công và kèm theo nổi buồn gia-đình, làm cho Ông càng ngày ngao ngán sự đời, nên Ông dâng sớ về triều đinh xin từ chức. Sau đó, Ông cùng vợ về quê ở Bình-Thủy (Cần-Thơ) để mở trường dạy học, làm thơ. Ông lấy biệt hiệu là : "Liễu Lâm chủ nhân". Nơi đây, Ông Thủ-Khoa-Nghĩa trở thành một nhà giáo để đào tạo cho lớp học trò trẻ, với niềm hy vọng sau này sẽ gánh vác việc nước, vì thế Ông giành nhiều thì giờ giáo huấn và khuyên học trò nên cố gắng học hành, làm những điều tốt, tránh những thói hư tật xấu, để sau này trở thành công dân hữu ích cho nhân quần xả hi, ví như bài thơ Khuyên Học Trò dưới đây :
Ăn ngủ làm chi hỡi học trò,
Có công đi học phải toan lo,
Chơi bời hoa nguyệt đùng mơ tưởng,
Học hỏi vàng thau phải đắn đo...
Ngoài ra, Ông tham gia phong trào Văn Thân để chống giặc Pháp, không phải bằng sức lực mà bằng những bài thơ yêu nước nồng nàn để nung đúc tinh thần cho các phong trào yêu nước lúc bấy giờ? Xin trích dẫn như sau :
Ai Xui Tây Đến
Ai khiến thằng Tây tới vậy à?
Đất bằng bỗng chốc nổi phong ba,
Nam Kỳ chi thiếu người trung nghĩa,
Báo quốc Cần Vương hà một ta.
Và Ông rất tin tưởng và lạc quan cuộc chống giặc Pháp nhứt định thắng lợi và giành lại độc lập tự do cho quê hương chúng ta. Xin trích dẫn sau đây :
Thời Cuộc
Anh hùng sáu tỉnh thiếu chi đây,
Đâu để giang san đến thế này!
Hùm nương non rậm toan chờ thuở,
Cáo loạn vườn hoang thác có ngày,
Một góc cảm thương dân nước lửa,
Đền Nam trụ cả há lung lay.
Giặc Pháp biết Ông Thủ-Khoa-Nghĩa là một nhà khoa bảng tuy đã từ bỏ quan trường, nhưng lại là một nhà thơ và một sĩ phu yêu nước, đang cổ vũ tinh thần cho nghĩa sĩ đứng lên cứu nước trừ giặc ngoại xâm rất tích cực, cho nên bọn thực dân Pháp đã dùng mọi cách để mua chuộc và dụ dỗ Ông. Nhưng với lòng yêu nước chân thành, căm thù giặc Pháp và khí tiết bất khuất của người chí sĩ, không thể lung lạc Ông. Vì thế, Ông bị giặc Pháp bắt giam tại Vĩnh-Long vào năm 1868 (Đây là lần thứ hai Ông bị bắt giam tại Vĩnh Long trong cuộc đời của Ông). Sau đó, Ông bị giải về Gia-Định, để tên tay sai Đỗ-Hữu-Phương bảo lãnh đưa về nhà riêng tiếp đãi tử tế, ngõ hầu thuyết phục Ông lần nữa, nhưng cuối cùng không thành và nơi này Ông đã nói thẳng với Ông Đỗ-Hữu-Phương là : "Đầu tôi không sợ rơi, mà chỉ sợ phải đi chung với những kẻ đang thiêu đốt giang san này". Cuối cùng Ông Đỗ-Hữu-Phương đành phải lựa lời nói với Pháp để thả Ông về. Dù đã được trả tự-do, nhưng Ông không an tâm và nỗi lo cho đất nước vẩn canh cánh bên lòng, cho nên Ông lúc nào cũng mong ước được :
Non nước ví như mà cũ được,
Trong tuần say mãi sướng hơn không?
Khi nói Ông Thủ-Khoa-Nghĩa làm thơ khi ẩn sĩ, thì không thể kể hết những bài thơ Ông đã làm. Nhân đây, xin trích thêm một bài thơ tiêu biểu, ví như sau :
Quan Công thất thủ Hạ Bì
Hạ Bì ngày nọ chẳng màng nào,
Gương sáng chi lầm chước túng thao,
Chén rượu anh em keo gắn chặt,
Tấm son tôi chúa đuốc chong cao,
Theo rồng dốc nhóm mấy trời Hán,
Xuống ngựa đâu tham bạc đất Tào,
Hai mối cang thường gồm đặng cả,
Ngàn năm thơm để miệng người rao.
Bài thơ này, ý nói tán dương đức độ và lòng trung hậu của Ông Quan-Vân-Trường, nhưng chính bài ngụ ý nói lên chân tướng và sĩ khí của Ông.
Được biết, khi Ông Thủ-Khoa-Nghĩa về ẩn sĩ ở Bình-Thủy, Ông đã cùng với Ông Phan-Văn-Trị tham gia nhóm Tao Đàn Bà Đồ (Tao Đàn Bà Đồ trước kia do Bà Nguyễn-Thị-Nguyệt sáng lập tại làng Bình-Thủy (Cần-Thơ), với mục đích phát huy truyền thống văn hóa dân-tộc qua thơ văn, trụ cốt là các nho sĩ trí thức đương thời). Theo hợp tuyển thơ văn Việt-Nam (1858-1920) của Ông Huỳnh-Lý chủ biên, đặt Ông Bùi-Hữu-Nghĩa lên đầu sách tức đứng ngôi thứ nhứt trong hàng các thi văn sĩ cân đại Việt-Nam. Bởi vì, Ông là nhà thơ cao tuổi, hơn Ông Nguyễn-Đình-Chiểu 15 tuổi, hơn Ông Phan-Văn-Trị 23 tuổi, hơn Ông Nguyễn-Thông 20 tuổi ...là bậc đàng anh không những về tuổi mà cả về tài đức nữa và trong các thi sĩ Đồng Nai (Nam Kỳ) lúc bấy giờ chỉ có tên Ông đi vào ca-dao truyền khẩu trong dân gian, được mọi người trọng vọng về tài năng nghệ thuật của đất này như sau :
Đồng Nai có bốn rồng vàng,
Lộc họa, Lễ phú, Sang đàn, Nghĩa thi.
Riêng ở Vĩnh-Long thì có ca-dao trong dân gian như sau :
Vĩnh-Long có cặp rồng vàng,
Nhứt Bùi-Hữu-Nghĩa, nhì Phan-Tuấn-Thần.
Quả thật vậy, một hôm Ông Phan-Văn-Trị cùng Ông Thủ-Khoa-Nghĩa đi vườn Liễu Lâm (nơi mộ Ông hiện nay) để ngâm thơ cùng nhóm Tao Đàn Bà Đồ. Khi qua sông Bình Thủy, Ông Phan-Văn-Trị đọc cho Ông Thủ-Khoa-Nghĩa nghe 4 câu thơ như sau:
Ta người không chiến bại,
Nước mất nhưng còn dân,
Mai mốt dân đòi lại,
Non nước này của dân.
Ông Thủ-Khoa-Nghĩa khen : "Chú tiến xa quá, thật là ý chí của một sĩ tuổi thanh xuân". Ông Phan-Văn-Trị tức Cử Trị lúc bấy giờ (bởi vì Ông Phan-Văn-Trị đã đậu tiến sĩ) nói tiếp, người ta nói : "Nước của vua, nhưng vua để mất, dân đòi lại trên tay giặc là nước của dân chớ sao!"
Đến nơi, trong bửa tiệc thân mật và tương đắc. Bà Đồ luôn miệng ngâm thêm 2 câu thơ ngũ ngôn, ý muốn chọc tức hai nhà thơ trứ danh thời bấy giờ :
Nghĩa, Trị đến tao đàn,
Lo đời hay vấn an?
Ông Thủ-Khoa-Nghĩa liền nói : "Nếu vậy chúng ta hãy làm cho trọn bài thơ ngũ ngôn, bát cú cho vui cô, chú nghĩa sao?" Cử Trị và Bà Đồ giơ tay tán thành.
Ông Thủ-Khoa-Nghĩa đọc câu thứ ba :
Tình người, tình tổ quốc,
Ông Cử Trị đối câu thứ tư :
Nợ thế, nợ giang san.
Bà Đồ ứng khẩu câu thứ năm :
Đuổi giặc nên dùng võ,
Ông Cử Trị đáp câu thứ sáu :
Rèn lòng phải dụng văn.
Ông Thủ -Khoa-Nghĩa chuyển câu thứ bảy :
Võ văn cùng hoạt đng,
Ông Cử Trị kết câu thứ tám :
Toàn diện vượt nguy nan.
Để rồi kết thành bài thơ liên ngâm của ba người như sau :
Nghĩa, Trị đến Tao Đàn,
Lo đời hay vấn an?
Tình người, tình tổ-quốc,
Nợ thế, nợ giang san.
Đuổi giặc nên dùng võ,
Rèn lòng phải dụng văn.
Võ văn cùng hoạt đng,
Toàn diện vượt nguy nan.
Như chúng ta đã thấy, nhóm Tao Đàn Bà Đồ của Ông Thủ-Khoa-Nghĩa, là người kế thừa của tư tưởng, đạo đức của hai nhóm Chiêu-Anh-Cát và Gia-Định Tam Gia Thi Xã. Được biết nhóm Chiêu-Anh-Cát ra đời khoảng năm 1739 tại Hà-Tiên (Rạch-Giá), có hai nhà thơ danh tiếng tiêu biểu là Ông Mạc-Thiên-Tích (1710-1780) và Ông Nguyễn-Cư-Trinh (1716-1767) cùng nhau xướng họa các bài thơ như sau: Hà-Tiên Thập Vịnh, Minh bột di ngư, Châu thị trinh liệt tặng ngôn, Thi truyện tặng Lưu tiết phụ ... của ông Mạc-Thiên-Tích - Quảng Ngải Thập Nhị Cảnh, Đạm Am thi tập ... của Ông Nguyễn-Cư-Trinh. Riêng nhóm Gia-Định Tam Gia Thi Xã ra đời khoảng hơn 40 năm sau nhóm Chiêu-Anh-Cát, có Ông Võ-Trường-Toản là người đứng đầu nhóm này, ngoài ra còn có các Ông : Trịnh-Hoài-Đức (1765-1825) đã sáng tác 18 bài thơ chữ Nôm đi sứ Trung Quốc, thơ chữ Hán có Cấn Trai thi tập, về sử địa bằng chữ Hán có Gia-Định-Thành Thông Chí... Lê-Quang-Định (1761-1813) thơ chữ Hán có Hoa Nguyên thi thi thảo, về điạ lý có Nhất Thống Dư Địa Chí... Ngô-Nhân-Tĩnh (1761-1813) phú chữ Nôm có Cổ Gia-Định Vịnh, thơ chữ Hán có Thập Anh Đường thi tập... Do vậy, các thi phẩm của người nhóm Tao Đàn Bà Đồ (Bình-Thủy - Cần-Thơ) phản ảnh trung thực tâm-hồn yêu nước, bất-khuất chống lại giặc Pháp và nối tiếp là Ông Nguyễn-Đình-Chiểu cũng có hành động giống nhau như chúng ta đã thấy ở trước.
Ông Thủ-Khoa-Nghĩa càng già càng buồn, vì đất nước chưa thoát khỏi ngoại xâm, một số bạn đồng liêu trước kia như : Đỗ-Hữu-Phương, Tôn-Thọ-Tường ... làm tay sai cho giặc, cho nên trong lòng Ông lúc nào cũng lo lắng và bất an, cái tâm trạng đó đã được Ông viết thành các câu thơ như sau :
Soi gương bỗng thấy đầu râu bạc,
Nước non có mắt thấy cho già...
hoặc là :
Nước non hãy còn đang bấy bá,
Đất trời sao nỡ khiến lay vay ...
Tuy không còn đủ sức chống chọi với cuộc đời, nhưng Ông vẫn luôn luôn theo dõi những diễn biến thăng trầm của thế cuộc, khi nghe tin các cuộc nghĩa sĩ chống giặc Pháp lần lượt thất bại, kế đến vua quan nhà Nguyễn đầu hàng giặc, Ông không chịu đựng nổi sự đau khổ và phải qua đời năm Nhâm Thân1872, hưởng thọ 65 tuổi, để lại những sự kính trọng và thương mến bằng ngôi mộ ngày nay. Hơn nữa, nếu có ai có dịp đi thăm viếng Châu-Đốc, sẽ tìm thấy ngôi trường trung học mang tên Ông, trường này thành lập sau các trường : Nguyễn-Đình-Chiểu (Mỷ-Tho), Phan-Thanh-Giản (Cần-Thơ) ...
Sau khi chúng ta rời khỏi m Ông Thủ-Khoa-Nghĩa, chúng ta tiếp đi về hướng Ô-Môn, Thốt-Nốt ... qua khỏi cầu Bình-Thủy, thấy ngay ngôi đình Bình Thủy nơi đây cũng thờ Ông, bởi vì Ông sống xem như tướng, nên chết thành thần vậy.
(Bài này viết theo nhiều tài-liệu của Ông Lê-Văn-Hoằng, người giữ tư liệu lưu trữ ngôi m Ông Thủ Khoa-Nghĩa cung cấp, nhân đây xin cảm Ông Mười Hoằng rất nhiều).
source
Hai Van News