Monday 14 September 2009

Nguyễn Phúc Nguyên - Vị chúa mở cõi, thành lập đội Hoàng Sa




(23/11/2008)
Rạch Bến Nghé là bến cảng tiếp các thuyền buôn các nơi đến buôn bán với Sài Gòn-Chợ Lớn. (nguồn ảnh: tienganh.com.vn)

Không chỉ vượt qua Thạch Bi Sơn gây dựng cơ sở đầu tiên trên đất Nam Bộ, khởi dựng hình hài lãnh thổ Việt Nam như hiện tại, nhiều sử liệu cho thấy chúa Nguyễn Phúc Nguyên còn là người đầu tiên tổ chức đội Hoàng Sa - hình thức độc đáo, khai chiếm xác lập chủ quyền trên các vùng đảo giữa Biển Đông.


3. Vượt qua Thạch Bi Sơn gây dựng những cơ sở đầu tiên trên đất Nam Bộ, người khởi dựng hình hài lãnh thổ của nước Việt Nam hiện đại

Năm 1611 nhân vì quân Chămpa đánh ra phía bắc đèo Cù Mông (Bình Định), chúa Nguyễn Hoàng sai chủ sự là Văn Phong đem quân đánh chiếm vùng đất từ đèo Cù Mông cho đến núi Thạch Bi của Chămpa và đặt làm phủ Phú Yên, giao cho Văn Phong làm lưu thủ.

Văn Phong lâu năm ở Phú Yên, kết thân với người Chăm đã dùng quân Chăm chống lại chúa Nguyễn, bị Nguyễn Phúc Nguyên cử phó tướng Nguyễn Phúc Vinh đem quân đánh dẹp, lập ra dinh Trấn Biên. Lương Văn Chính là người có công đầu trong việc chiêu tập lưu dân khai khẩn đất hoang lập ra nhiều thôn ấp của người Việt, nhanh chóng biến toàn bộ khu đất mới được tích hợp vào đất Đàng Trong thành địa bàn căn bản của chúa Nguyễn.

Không dừng lại ở khu vực Phú Yên, ngay từ đầu thế kỷ XVII, đã bắt đầu có những nhóm cư dân người Việt ở Thuận - Quảng đi thẳng vào khu vực Mô Xoài (Bà Rịa) và Đồng Nai (Biên Hoà) tiến hành khai khẩn đất hoang, lập ra những làng người Việt đầu tiên trên vùng đất Nam Bộ.

Năm 1620, Chúa Nguyễn Phúc Nguyên chấp thuận lời cầu hôn của Quốc vương Chân Lạp, cho một người con gái của mình là Công chúa Ngọc Vạn kết hôn với Chey Chetta II. Sự việc này cũng đã được Christoforo Borri xác nhận[13].

Theo truyền thống gia đình và quê hương, công chúa Ngọc Vạn là người tôn sùng Phật giáo nên có nhiều thuận lợi hoà nhập được ngay vào môi trường văn hoá- tín ngưỡng của Hoàng gia và xã hội Chân Lạp. Bà được Quốc vương Chey Chetta II đặc biệt đề cao về sắc đẹp và đức tính khoan hoà đã phong làm Hoàng hậu với tước hiệu Somdach Prea Peaccac Vodey Prea Voreac Khsattrey.

Trong bối cảnh Chân Lạp đang đứng trước nguy cơ bị tiêu diệt bởi quân Xiêm ở phía Tây, trước sự lớn mạnh và chủ trương hoà hiếu của chính quyền Đàng Trong, Hoàng hậu Ngọc Vạn trở thành sứ giả đại diện cho cả hai vương triều Đàng Trong, Chân Lạp trong các chính sách đối ngoại, đối nội và không chỉ phụng sự cho riêng một vương triều nào.

Nhờ có sự giúp đỡ hiệu quả của Đàng Trong mà Chey Chetta II đã nhiều lần liên tục đánh bại các cuộc tấn công xâm lược của quân Xiêm, bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị thế của Chân Lạp trong khu vực. Chey Chetta II chỉ ở ngôi trong khoảng 11 năm (1618-1628), nhưng đã tạo dựng được một giai đoạn ổn định và phát triển huy hoàng trong điều kiện vô cùng gian nan, khốn khó.

Nhiều nhóm cư dân Việt ở vùng Thuận - Quảng từ hai thập kỷ đầu thế kỷ XVII đã tự phát tìm vào sinh sống làm ăn ở lưu vực sông Đồng Nai, đến nay có thêm sự bảo trợ của bà Hoàng hậu của vương triều Chey Chetta II nên di cư ngày một đông thêm và tiến sâu hơn đến những vùng đất chưa được khai thác ở đồng bằng sông Cửu Long.

Thậm chí có nhóm dân cư còn tiến ra chiếm lĩnh các hải đảo và cũng có nhóm đã đi sát đến kinh đô Udong. Đây chính là cơ sở khách quan và thuận lợi cho Chúa Nguyễn từng bước hợp pháp hoá sự kiểm soát của mình một cách hoà bình đối với vùng đất đã được người Việt tổ chức khai khẩn.

Năm 1623, Chúa Nguyễn Phúc Nguyên chủ động đặt ra và thương lượng thành công với Chey Chetta II, lập hai thương điếm (đồn thu thuế) là Kas Krobei trên bờ sông Sài Gòn (xưa gọi là sông Bến Nghé) và Brai Kor trên bờ rạch Bến Nghé hay kênh Tàu Hủ (xưa gọi là rạch Sài Gòn - khu Chợ Lớn từ năm 1859), thuộc địa phận thành phố Hồ Chí Minh ngày nay, để tiến hành thu thuế. Biên niên sử Chân Lạp chép về sự kiện này đã xác nhận vai trò đặc biệt quan trọng của Hoàng hậu Ang Cuv (tên của Ngọc Vạn) trong quá trình thương lượng.

Georges Maspéro trong sách Đế quốc Khmer khảo cứu kỹ biên niên sử Khmer cũng cho biết rõ thêm: “Nhà Vua mới lên ngôi Chey Chetta II liền xây một cung điện ở Oudong (U Đông). Nơi đây ông long trọng cử hành lễ cưới một công chúa con Vua An Nam. Bà này rất đẹp. Chẳng bao lâu, bà có ảnh hưởng mạnh đến nhà Vua. Nhờ bà mà một sứ đoàn An Nam đã xin được Chey Chetta cho phép lập thương điếm trong miền Nam Cao Miên, ở chính nơi ngày nay là Sài Gòn”[14].

Cuộc hôn nhân Chey Chetta II - Ngọc Vạn vốn là cuộc hôn nhân chính trị đã trở thành trọn vẹn do đáp ứng được đầy đủ lợi ích của cả hai hoàng gia, hai vương triều và rộng ra là cả hai đất nước. Không chỉ có các nhà viết sử Việt Nam mà các nhà viết sử Cămpuchia và các chuyên gia sử học khác trên thế giới khi đề cập đến sự kiện này đều ca ngợi sự nghiệp, công đức cũng như những đóng góp cho đất nước, cho hoà bình và phát triển khu vực của cả Quốc vương Chey Chetta II và Hoàng hậu Ngọc Vạn.

Riêng đối với chúa Nguyễn Phúc Nguyên thì đây phải được xem là bước đi cần thiết, căn bản và hết sức tài khéo để cắm một cái mốc chủ quyền đầu tiên của chính quyền Đàng Trong trên vùng đất Nam Bộ.

Năm 1757 với việc Quốc vương Chân Lạp là Nặc Tôn dâng đất Tầm Phong Long cho chúa Nguyễn Phúc Khoát, chúa Nguyễn về cơ bản đã hoàn thành công cuộc khai chiếm toàn bộ vùng đất Nam Bộ, cả đất liền và các hải đảo thuộc Biển Đông và Biển Tây, xác lập và ổn định phạm vi lãnh thổ tương đương với lãnh thổ Việt Nam hiện nay.

4. Tổ chức đội Hoàng Sa - hình thức độc đáo, duy nhất khai chiếm, xác lập và thực thi chủ quyền trên các vùng quần đảo giữa Biển Đông

Cuốn sách xưa nhất và ghi chép khá đầy đủ và cụ thể về các đội Hoàng Sa, Bắc Hải là Phủ biên tạp lục của nhà bác học Lê Quý Đôn viết vào năm 1776 trên cơ sở sưu tầm, tập hợp tư liệu, ghi chép những điều tai nghe, mắt thấy trong 6 tháng ông làm Hiệp trấn hai xứ Thuận Hoá, Quảng Nam. Sách chép: “Phủ Quảng Ngãi ở ngoài cửa biển xã An Vĩnh huyện Bình Sơn có núi gọi là Cù Lao Ré,....; phía ngoài nữa lại có đảo Đại Trường Sa, trước kia có nhiều hải vật và những hoá vật của tàu, lập đội Hoàng Sa để lấy, đi 3 ngày 3 đêm thì mới đến, là chỗ gần xứ Bắc Hải....

Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng 2 nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn 6 tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền câu nhỏ, ra biển 3 ngày 3 đêm thì đến đảo ấy. ở đây tha hồ bắt chim bắt cá mà ăn. Lấy được hoá vật của tàu, như là gươm, ngựa, hoa bạc, tiền bạc, hòn bạc, đồ đồng, khối thiếc, khối chì, súng, ngà voi, sáp ong, đồ sứ, đồ chiên, cùng là kiếm lượm vỏ đồi mồi, vỏ hải ba, hải sâm, hột ốc vân rất nhiều. Đến kỳ tháng 8 thì về, vào cửa Eo, đến thành Phú Xuân để nộp, cân và định hạng xong, mới cho đem bán riêng các thứ ốc vân, hải ba, hải sâm, rồi lĩnh bằng trở về...

Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, không định bao nhiêu suất, hoặc người thôn Tứ Chính ở Bình Thuận, hoặc người xã Cảnh Dương, ai tình nguyện đi thì cấp giấy sai đi, miễn cho tiền sưu cùng các tiền tuần đò, cho đi thuyền câu nhỏ ra các xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên tìm lượm vật của tàu và các thứ đồi mồi, hải ba, bào ngư, hải sâm, cũng sai cai đội Hoàng Sa kiêm quản. Chẳng qua là lấy các thứ hải vật, còn vàng bạc của quý ít khi lấy được.” [15]

Như vậy, thông qua một hệ thống các tư liệu gốc, khách quan, xác thực, Lê Quý Đôn đã giới thiệu tương đối đầy đủ vị trí, đặc điểm tự nhiên của Hoàng Sa, Trường Sa, cũng như cơ cấu tổ chức, chức năng và hoạt động của hai đội Hoàng Sa, Bắc Hải.

Bộ sách được hoàn thành chỉ sau Phủ biên tạp lục một thời gian ngắn là Đại Việt sử ký tục biên[16]. Đại Việt sử ký tục biên (1676-1789) là bộ chính sử do Quốc sử viện thời Lê Trịnh tổ chức biên soạn, nối tiếp vào quyển XIX sách Đại Việt sử ký toàn thư, trong đó đoạn ghi chép về Hoàng Sa, Trường Sa trên căn bản không khác ghi chép của Lê Quý Đôn.

Đại Nam thực lục Tiền biên là phần đầu bộ chính sử của triều Nguyễn được khởi soạn năm 1821, hoàn thành và khắc in năm 1844, nhân nói đến sự kiện tháng 7 năm 1754 “dân đội Hoàng Sa ở Quảng Ngãi đi thuyền ra đảo Hoàng Sa, gặp gió dạt vào hải phận Quỳnh Châu nước Thanh. Tổng đốc Thanh hậu cấp cho rồi cho đưa về. Chúa [Nguyễn Phúc Khoát] sai viết thư [cám ơn]” [17] đã mô tả Vạn Lý Trường Sa và các đội Hoàng Sa, Bắc Hải được tổ chức từ thời “quốc sơ” (tức là từ thời các chúa Nguyễn đầu tiên) không có gì khác với Phủ Biên tạp lục và Đại Việt sử ký tục biên.

Toàn tập An Nam lộ của Đỗ Bá Công Đạo người xã Bích Triều, huyện Thanh Chương tỉnh Nghệ An soạn năm Chính Hoà thứ 7 (1686), phần bản đồ phủ Thăng Hoa và phủ Quảng Ngãi phía ngoài biển có vẽ Bãi Cát Vàng và ghi chú rõ: “Mỗi năm đến tháng cuối đông [chúa Nguyễn] đưa 18 chiếc thuyền đến đó [Bãi Cát Vàng] nhặt vàng bạc”[18].

Khoảng một thập kỷ sau, vị Hoà thượng Trung Quốc nổi tiếng trụ trì ở chùa Trường Thọ, tỉnh Quảng Đông là Thích Đại Sán sang Đàng Trong trên đường trở về Trung Quốc đã mô tả khá chi tiết về bãi cát Vạn Lý Trường Sa và cho biết: “Các Quốc vương [tức các chúa Nguyễn] thời trước hàng năm sai thuyền đánh cá đi dọc theo các bãi cát, lượm vàng bạc khí cụ của các thuyền hư hỏng dạt vào”[19]. Năm 1701, nghĩa là chỉ 15 năm sau bản đồ Đỗ Bá và 4-5 năm sau Hải ngoại kỷ sự của Thích Đại Sán, các giáo sĩ người Pháp trên tầu Amphitrite khẳng định: “Paracel là một quần đảo thuộc về vương quốc An Nam”[20].

Như thế các tư liệu đương đại của cả Việt Nam, Trung Quốc và phương Tây đều chép rất cụ thể, rõ ràng và thống nhất về sự hiện diện của đội Hoàng Sa vào thời kỳ đầu (“buổi quốc sơ”) của các chúa Nguyễn trong thế kỷ XVII. Vấn đề đặt ra là vào thời điểm cụ thể nào và vị chúa Nguyễn nào là người đầu tiên tổ chức ra đội Hoàng Sa?.

Tại nhà thờ họ Võ, phường An Vĩnh (thôn Tây xã Lý Vĩnh, huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi) còn giữ được tờ đơn đề ngày 15 tháng Giêng năm Cảnh Hưng thứ 36 (1775) do Hà Liễu là Cai hợp phường Cù Lao Ré xã An Vĩnh đứng tên xin chấn chỉnh lại đội Hoàng Sa. Đơn cho biết: “Nguyên xã chúng tôi xưa có hai đội Hoàng Sa và Quế Hương. Vào năm Tân Mùi (1631), Đốc chiến là Võ Hệ đã đệ đơn xin tâu được lập hai đội nữa là đội Đại Mạo Hải Ba và đội Quế Hương Hàm với số đinh 30 người...”.

Đối chiếu tư liệu này với nguồn tư liệu phương Tây đương đại, chúng tôi có thêm những thông tin để xác định thời điểm ra đời của đội Hoàng Sa.

Năm 1633, phái bộ thương gia Hà Lan do Paulus Traudenius dẫn đầu đã đến vịnh Đà Nẵng và đến 1636, người Hà Lan đã được phép mở một thương điếm ở Faifoo (Hội An), dưới quyền điều hành của Abraham Duijcker.

Ngày 6 tháng 3 hai tàu Hà Lan là Warmont và Grol đi từ Nhật Bản đã đến Đà Nẵng, được chính quyền Đàng Trong tiếp đón. ở Hội An chúa Nguyễn Phúc Lan cũng đã tiếp Duijcker. Trong cuộc tiếp kiến này "Duijcker đã chuyển đến Chúa một điều khiếu nại. Đó là việc chiếc tàu mang tên Grootenbroeck đã bị đắm ở ngoài khơi bãi cát Paracels, đoàn thuỷ thủ đã được các người Việt xứ Đàng Trong cứu giúp, nhưng đồng thời cũng lấy đi tổng số món tiền là 25.580 réaux, vậy nên trưởng điếm Duijcker có nhiệm vụ xin được bồi hoàn món tiền đó.

Ông ta được trả lời rằng những việc đó đã được xảy ra từ thời chúa trước (tức chúa Nguyễn Phúc Nguyên), không nên đề cập đến nữa, ngược lại, người Hà Lan từ nay sẽ được hoàn toàn tự do mang hàng hoá đến buôn bán, được miễn thuế, vả lại, sau này nếu có tàu Hà Lan mà bị đắm ở ngoài khơi thì sẽ không có chuyện tịch thu hàng hoá được cứu hộ nữa"[21].

Tư liệu chung quanh vụ đắm tàu Grootenbroeck ở Hoàng Sa năm 1634 xác nhận vai trò của những đoàn người Việt xứ Đàng Trong ở quần đảo Hoàng Sa làm công tác cứu hộ, rồi đưa các nạn nhân về vùng Quảng Nam. Họ thường xuyên đi thuyền ra Hoàng Sa kiểm soát vùng biển và đảo.

Chúng ta có đủ cơ sở để tin rằng lực lượng người Việt xứ Đàng Trong cứu tầu Grootenbreock tại Hoàng Sa năm 1634 chính là những người của đội Hoàng Sa đảo Lý Sơn (được thành lập trước năm Tân Mùi (1631) qua phản ánh của tờ đơn xin chấn chỉnh lại đội Hoàng Sa lưu tại nhà thờ họ Võ phường An Vĩnh).

Chúa Nguyễn Hoàng vào nam dựng nghiệp giữa lúc nhu cầu chiếm lĩnh các quần đảo giữa Biển Đông đặt ra gay gắt và bức thiết. Được thừa hưởng những cơ sở và kinh nghiệm của người Chăm và vương quốc Chămpa trước đây, Nguyễn Hoàng đã sớm chăm lo xây dựng các đội thuyền, mở cửa buôn bán với nước ngoài để phát huy sức mạnh trong nước và chuẩn bị những buớc đi đầu tiên cho việc chiếm lĩnh các quần đảo giữa Biển Đông, nhưng chưa thấy có tư liệu nào khả dĩ cho hay vào thời kỳ Nguyễn Hoàng (1558-1613) đã có đội Hoàng Sa.

Công việc thực thi chủ quyền ở khu vực hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa theo chúng tôi, chỉ thật sự bắt đầu khi chúa Nguyễn Phúc Nguyên lên nắm quyền. Các sự kiện có liên quan đến hoạt động của đội Hoàng Sa xảy ra vào các năm 1634, 1631 hay trước 1631 một ít năm, thì cũng đều nằm trong thời kỳ chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635).

Có đủ cơ sở để khẳng định đội Hoàng Sa xuất hiện lần đầu tiên vào thời thời kỳ chúa Nguyễn Phúc Nguyên hay chúa Nguyễn Phúc Nguyên chính là người đã sáng tạo ra một hình thức khai chiếm, xác lập và thực thi chủ quyền trên các vùng quần đảo giữa Biển Đông hết sức độc đáo là đội Hoàng Sa.

Chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa là một trong những trang đẹp nhất, bi hùng nhất của lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam mà chúa Nguyễn Phúc Nguyên là vị chúa mở đầu, khai sáng.

GS.TS Nguyễn Quang Ngọc (Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển)

* Bài trích từ tham luận tại Hội thảo về chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong Lịch sử Việt Nam" ngày 18 - 19/10/2008. Tiêu đề kỳ 2 do tòa soạn đặt.

-----------------
Ghi chú:

[13] Christoforo Borri, Cochin - China, London, 1633, Da Capo press. Theatrem Orbis Ltd Amsterdam, New York, 1970, Chap.VII, p. H.4. Tác giả còn cho biết rõ Quốc vương Chân Lạp, nguời kết hôn với con gái Chúa Nguyễn (Phúc Nguyên) đã xin Chúa viện trợ khí tài và quân đội để chống Xiêm. Thực tế chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã “chuẩn bị vũ khí và mộ binh giúp vua Cămpuchia, cung cấp cho vua này thuyền chiến và quân binh để cầm cự với vua Xiêm”.

[14] G. Maspéro, L’empire Khmer, Phnom Penh, 1904, p. 61.

[15] Lê Quý Đôn: Toàn tập (Phủ Biên tạp lục), T.1, Bản dịch Nxb KHXH, Hà Nội, 1977, tr 116.

[16] Đại Việt sử ký tục biên (1676-1789), Bản dịch Nxb KHXH, Hà Nội, 1991, tr 243-244.

[17] Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, TI, Bản dịch đã dẫn, tr 164.

[18] Phần chú bằng chữ Nôm Toản tập An Nam lộ trong Thiên hạ bản đồ lưu tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.2628.

[19] Thích Đại Sán: Hải ngoại kỷ sự, Viện Đại học Huế, 1963, tr.125.

[20] Jean.Yves Clayes: Journal de Voyage aux Paracels (Indochine No 45, 1941, tr.7).

[21] Ch.B.Maybon: Les marchands europe"ens are Cochinchine et au Tonkin (1660-1775), (Revue Indochinoise 1916).



http://www.tuanvietnam.net
source
http://vns.hnue.edu.vn/WItemdetail.aspx?CatID=33&SubID=0&ItemID=435

No comments:

Post a Comment