Friday 11 May 2012

Nhà văn Chu Thiên (1913-1992)


Nhà văn Chu Thiên (1913-1992)
Wednesday, May 09, 2012 3:04:22 PM




Những ông thầy thời niên thiếu



Viên Linh

Tháng 5, 1954. Thầy Chu Thiên, hiệu trưởng trường Trung học Phủ Lý hỏi học trò: “Em có thể chở thầy lên Hà Nội không?”... “Bao giờ em vào Nam?” “Dạ? “Mẹ em có tính đi Nam không? Về nói với mẹ em coi chừng kẻo trễ.”
Nhà văn Chu Thiên (1913-1992). (Hình: Từ Ðiển Văn Học, Hà Nội)
Nhà văn Chu Thiên (1913-1992). (Hình: Từ Ðiển Văn Học, Hà Nội)
Chu Thiên là tác giả những cuốn tiểu thuyết nổi danh như Bút Nghiên, Nhà Nho, mà Vũ Ngọc Phan trong Nhà Văn Hiện Ðại (1942) đã xếp vào chương các nhà văn viết tiểu thuyết phóng sự. Với toàn bộ sự nghiệp của ông cho tới khi từ trần năm 1992, ông xứng đáng là một tiểu thuyết gia lịch sử. Người viết những dòng này là học trò ông trong ba tháng hè ở Trung học Phủ Lý, 1954, những ngày xao động phân ly nhất của tuổi trẻ đất nước, khi những chữ “hội nghị Geneve,” “vô Nam hay ở lại” được mọi người nhắc nhở, bàn tán từ đồng quê tới phố phường, từ Hà Nội tới các tỉnh thành khác của Việt Nam.
Trước khi về Phủ Lý học khóa hè, những tháng cuối cùng của năm đệ lục ở Chu Văn An Hà Nội, tôi đã chứng kiến một kinh thành nhớn nhác qua đôi mắt của một cậu học trò trọ học. Mẹ và chị em còn ở hậu phương, song gia đình họ Nguyễn chúng tôi phần lớn đã ở Hà Nội. Lúc ấy, nghe mấy chữ Ðiện Biên Phủ ai cũng hiểu đó là nơi chiến tranh Pháp Việt đang xảy ra vô cùng ác liệt.
“Cuộc chiến đấu của quân đồn trú ở Ðiện Biên Phủ tiếp tục, và các hoạt động tiếp vận từ Hà Nội yểm trợ cho căn cứ vẫn được tiến hành. Ðêm 5 rạng 6 tháng 5 [1954], vào lúc 04:12 giờ chừng 10 chiếc máy bay vận tải C47 vượt lưới lửa phòng không thả thêm được 91 quân dù xuống Ðiện Biên Phủ. Ðây là đêm thứ tư thả các đơn vị của tiểu đoàn Nhảy Dù thuộc-địa số 1, và trong bốn đêm liền mới chỉ có 383 trong số 876 người của tiểu đoàn này chạm đất...” “...Ngày 7 tháng 5, vào lúc 10:00 giờ Tướng De Castries liên lạc về Hà Nội báo cáo với Tướng Cogny ÐBP đang trong tình trạng hấp hối. Khoảng 3:00 giờ chiều ở Bộ Chỉ Huy căn cứ ÐBP đã có một buổi hội chỉ huy lần chót... Họ đề nghị ngưng bắn vào lúc 17:30 giờ và thông báo cho đối phương biết.” “ÐBP thất thủ hôm trước thì hôm sau tức là ngày 8 tháng 5, 1954, chín đoàn đại biểu của Pháp, Quốc Gia Việt Nam, Miên Lào, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Anh Quốc, Liên Xô, Trung Cộng và Hoa Kỳ bắt đầu các cuộc thương thuyết nhằm chấm dứt cuộc chiến tranh Việt Nam trong khuôn khổ Hội Nghị Viễn Ðông đã khai mạc ngày 26 tháng 4, 1954 tại Giơ-ne, [Geneve] Thụy Sĩ.” (Bạch Hạc Trần Ðức Minh, Một Thời Nhiễu Nhương, 1945-1975, tr. 363-364.)
Quê quán Ðồng Văn của chúng tôi gồm có Phố Ga Ðồng Văn, một thị trấn chạy dài gần hai cây số trên Quốc lộ số 1, và thôn Ðồng Văn, chỉ cách Quốc lộ 1 bằng một con sông đào. Từ nhà đi Hà Nội cách 47 cây số ở hướng Bắc, đi Phủ Lý cách 11 cây số, ở hướng Nam. Ba tháng hè về quê, tôi đi Phủ Lý học, đi về bằng xe đạp mỗi lượt chỉ mất vài chục phút, nếu đường không bị đào xới, cắt khúc, chất chướng ngại vật. Hai bên đường đầy tăng-xê, cắt sâu vào mặt đường theo kiểu chữ chi (Z), đan nhau bằng cách không để xe hơi chạy nhanh được. Xe phải lượn ngoằn ngoèo tránh những khoảng lõm ăn sâu vào xương sống con đường. Lúc ấy tôi có một chiếc xe đạp Peugeot dura, loại nhẹ, chỉ cần cầm một tay giơ cao khỏi đầu được. Nhờ nó, tôi di chuyển dễ dàng, từ nhà tới Phủ Lý học đã đành, lại còn chạy chơi bên bờ sông Châu Giang, hay đôi khi cùng một người bạn trốn nhà phóng lên Hà Nội vào buổi trưa, đến tối đã có mặt ở nhà, có khi không ai biết.
Trường Chu Văn An ở Hà Nội và ngôi trường trung học ở Phủ Lý là hai chỗ không thể so sánh được. Nhưng mặt khác, hai ngôi trường đó đã cho tôi ba vị thầy không bao giờ cậu thiếu niên học trò có thể lãng quên, nhất là những ngày ngồi viết những dòng chữ này ở ngoài đất nước.
Ở Phủ Lý, tôi ngồi trong lớp đệ lục, thầy dạy Quốc Văn là thầy Chu Thiên. Thầy cũng dạy Việt Sử nữa. Tôi thấy thầy ở ngoài lớp, không nghĩ ngợi gì, mà tự dưng thấy băn khoăn. Hình ảnh còn nhớ tới bây giờ là một người đàn ông hom hem, mặc quần áo kaki bạc màu, áo cũng như quần, đều một màu vàng nhạt, bạc thếch, thầy đứng tựa lưng vào tường, lẫn vào màu vôi vàng nhạt cũng bạc thếch của ngôi trường đâu chỉ có hai hay ba căn. Thầy Chu Thiên ở Trung Học Phủ Lý không giống bất cứ ông thầy nào ở Chu Văn An. Thầy quá gầy yếu, đã đứng tựa vào tường mà còn không đứng thẳng. Hơi xiêu xiêu, hay thầy trùng một chân xuống, khuỵu một gối xuống, chỉ cho sức nặng của thân thể trì trên một chân. Thầy sẽ đổi chân, chuyển sức nặng qua trái hay phải tùy theo từng lúc. Thoáng thấy lần đầu, thầy đang ăn một khúc sắn trắng muốt. Tôi không biết ông sẽ là thầy tôi, cho đến một hai hôm sau. Hôm sau đó, vẫn hình ảnh ấy, chỉ khác là thầy không ăn sắn, mà ăn chuối. Thế rồi thầy lên lớp, bấy giờ tôi mới biết đó là thầy Chu Thiên, vừa là giáo sư, vừa là hiệu trưởng.
Chỉ trong khoảng vài tuần, tôi thương thầy. Và cứ từ thân xác mình suy ra, tôi đoán chừng thầy nặng khoảng 40 cân. Biết ông thầy gầy yếu, nhưng tôi không suy nghĩ gì, cũng chẳng tìm hiểu làm gì, cho đến một hôm thầy Chu Thiên tới gần tôi trong giờ chuyển lớp chuyển môn. Thầy hỏi: “Em có thể chở thầy lên Hà Nội không. Hay chỉ cần chở thầy lên Ðồng Văn cũng được. Thầy cũng có thể chỉ đến Ðồng Văn, rồi tìm cách đi Chợ Ðại hay Cống Thần, rồi đi Hà Nội sau.” Khi thầy ngồi lên cái khung ngang của chiếc xe đạp rồi, tôi đạp xe đi, mỗi tay một bên ghi-đông, mà không thấy thầy chạm vào tay tôi.
Tôi không còn nhớ những chuyện gì đã nói, song nhớ rất rõ thầy hỏi về gia cảnh của học trò. Tôi kể thành thật, kể hết, không giấu diếm gì. Tôi cũng cho thầy biết - vì thầy hỏi - về họ hàng chú bác, tất cả ở Hà Nội.
-Bao giờ em vào Nam?
-Dạ?
-Mẹ em có tính đi Nam không? Chú bác họ hàng ở Hà Nội chắc là đi Nam cả?
-Vâng.
Tới nhà tôi, Phúc Hưng Ðường, là ngôi nhà gạch nằm trấn trên ngã ba Phố Ga, cách mặt đường vài chục thước. Trước mặt là một con dốc mà dân nhiều làng phía châu thổ Sông Hồng sẽ phải đi qua để đáp tàu hỏa lên Hà Nội, các tỉnh phía Tây Bắc, hay xuôi Nam, vào Huế, hay Sài Gòn. Tôi chỉ ngôi nhà cho thầy biết. Sinh tiền, đó là tiệm thuốc Bắc của Bố tôi. Ðịa thế của nó hồi 1944 đã bị Nhật chiếm làm trụ sở.
Thầy đòi xuống, nói sẽ đi Hà Nội sau. Tôi gặng hỏi để chở thầy đi luôn, nhưng thầy nhất định thoái thác. Khi chia tay, thầy nhìn sâu vào mắt tôi:
-Về nói với mẹ em coi chừng kẻo trễ.
Ðó là tất cả những gì tôi nhớ về thầy khi còn niên thiếu; sau này mới đọc và tìm hiểu thêm về ông thầy nhà văn nổi tiếng.

Chú thích:
Chu Thiên tên khai sinh là Hoàng Minh Giám, sinh ngày 2 tháng 9, 1913, quê ở huyện Ý Yên, Nam Ðịnh, dòng dõi nhà Nho. Năm 1938 ông ở Hà Nội, bắt đầu bước chân vào làng văn, viết bài cho các báo thời ấy, như trên tờ Tri Tân ông viết rất nhiều, nghiêng về các đề tài lịch sử, tiểu thuyết lịch sử xoay quanh các nhân vật như Lê Thái Tổ (1941), Bà Quận Mỹ (1942), Bút Nghiên (1942), Nhà Nho (1943), Tuyết Giang Phu Tử (1945), Khí Tiết (1946). Trong thời kháng chiến, ông chuyên về dạy học, từng làm hiệu trưởng Trung Học Phủ Lý, sau năm 1954 về Hà Nội, ông dạy Ðại Học Tổng Hợp. Năm 1970 Chu Thiên nổi tiếng một lần nữa với tiểu thuyết Bóng Nước Hồ Gươm, gồm hai tập, viết về giai đoạn biến động của đất nước từ khi Pháp đánh chiếm Nam Kỳ và Hà Nội từ thế kỷ thứ XIX. Ðây là một tác phẩm đồ sộ cuối đời của ông. Ông từ trần năm 1992.
source
Nguoi-Viet Online

No comments:

Post a Comment