Sunday 23 September 2012

Thái Tuấn và hội họa miền Nam



Thái Tuấn và hội họa miền Nam 
Wednesday, September 19, 2012 2:16:49 PM 




Viên Linh
  
“Thái Tuấn đã tổng hợp tinh túy của nghệ thuật Á Ðông và kỹ thuật hội họa Âu Châu để vẽ nên những tấm tranh của mình. [...]Tiến vào nền nghệ thuật mới, cuộc Triển lãm Hội họa Mùa Xuân Giáp Thìn, 1964, do Văn Hóa Vụ tổ chức ở Nhà Hát Lớn Sài Gòn là một cột mốc đáng kể. Có 583 họa phẩm sơn dầu do hơn 200 họa sĩ khắp nơi gửi về tham dự. 
Họa sĩ Thái Tuấn tự họa, 2004. (Hình: Tài liệu riêng của Viên Linh)
Phòng tranh này đã gây được nhiều dư vang trong cuộc sống tinh thần của đất nước chính phần nào cũng là nhờ ở sự thúc đẩy của Hội Ðồng Giám Khảo cuộc triển lãm, cổ xúy cho cái mới, hỗ trợ cho những tiếng nói trẻ táo bạo, với chủ tịch hội đồng là Thái Tuấn và 4 thành viên khác trong hội đồng.” (Huỳnh Hữu Ủy, Hai Mươi Năm Hội Họa Miền Nam, 1954-1975, Khởi Hành 81, 7.2003)
Họa sĩ Thái Tuấn là một nghệ sĩ toàn diện mà tài năng không chỉ ở nghệ thuật tạo hình, ông còn làm thơ, viết tiểu luận, tổ chức các cuộc triển lãm lớn qui tụ nhân tài trong nước, nhất là nhân tài trong giới trẻ chưa có dịp xuất hiện; ông còn là người, qua nét vẽ của mình, đưa vẻ đẹp phương Ðông giản dị hiển hiện và tồn tại trong tâm tưởng người thưởng ngoạn. Sau năm 1954 ông đã thúc đẩy nền hội họa miền Nam tiến triển không ngừng, mà từ đó, khơi dậy sự sáng tạo tưng bừng, chỉ bốn năm sau, 1958, miền Nam có hơn 50 cuộc triển lãm hội họa! Theo tổng kết của nhà biên khảo nghệ thuật tạo hình Huỳnh Hữu Ủy, năm sau có 300 bức họa được chọn (trong hàng ngàn bức) để trưng bày trong Phòng Triển Lãm Mùa Xuân Kỷ Hợi 1959. Ðỉnh cao đáng kể nữa là năm 1962, Việt Nam lần đầu tiên đứng ra tổ chức một cuộc triển lãm mời nghệ sĩ các nước tham dự, mệnh danh là “Ðệ Nhất Triển Lãm Quốc Tế Mỹ Thuật” tại Sài Gòn, diễn ra trong một tuần lễ tại Vườn Tao Ðàn, có mặt nhiều nước như Pháp, Ðức, Mỹ, Hòa Lan, Thụy Sĩ, Á Căn Ðình, Thổ Nhĩ Kỳ, các nước Á Châu như Nhật, Trung Hoa, Ấn Ðộ, Úc Châu,... và nhiều nước khác. Trong lòng cuộc sinh hoạt nghệ thuật này, Hội Họa Sĩ Trẻ Việt Nam được thành lập, và đây là nhóm nghệ sĩ xung kích nổi bật nhất của Việt Nam trong thời hiện đại; ở đó người ta thấy những người sẽ trở thành các nghệ sĩ tên tuổi không phải của một thời, mà sau 1975, cho dù chính thể biến chuyển, họ vẫn tồn tại, vẫn được trọng vọng, dù ở hải ngoại hay ở trong nước.
Các nghệ sĩ của miền Nam trưởng thành sau thập niên '50 đã trở nên một hiện tượng rỡ ràng. Dù không muốn so sánh, người ta vẫn tự nhiên nhìn thấy sự so sánh. Vì sao ở hữu ngạn con sông cỏ cây phong cảnh tốt tươi, mà nơi tả ngạn là sự còi cụt khô cằn và ảm đạm? Ðiều giản dị và căn bản là nghệ sĩ bên hữu ngạn đã được nuôi dưỡng bởi tinh thần sáng tạo, lối sống tự do, nội dung nhân bản, được đãi lọc trong ảnh hưởng của tinh hoa nghệ thuật thế giới, vì hữu ngạn mở cửa ra với thế giới, đón nhận cái hay cái đẹp của thế giới. Nơi nào cá tính bản chất con người được nẩy nở, được vun bồi, nơi ấy cuộc sống thăng hoa. Ngược lại phía tả ngạn “toàn là hoa cúc vạn thọ” như văn hào Phan Khôi đã báo động từ thập niên '50 ở Hà Nội.
Cho tới ngày nay, nói tới hội họa Việt Nam, khởi nguồn từ thế hệ thứ nhất sau khi trường Cao Ðẳng Mỹ Thuật Ðông Dương được người Pháp thành lập ở Thăng Long-Hà Nội năm 1925, chúng ta nói đến những sinh viên họa sĩ khóa đầu tiên, những Lê Phổ, Mai Trung Thứ, Nguyễn Phan Chánh, Lê Văn Ðệ, sau đó là những tinh túy của thời tiền chiến, nhưng Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Tường Lân, Tô Ngọc Vân, Tạ Tỵ, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Phan Chánh... Theo Nguyễn Hải Yến, bà nhắc đến “tứ quí Trí Lân Vân Cẩn.* Ở miền Nam thời dựng nước Cộng Hòa, chúng ta có Thái Tuấn, Duy Thanh, Ngọc Dũng, Tú Duyên, Văn Ðen, và tiếp đó là một lớp sóng triều ào ạt: Nguyễn Trung, Ðinh Cường, Cù Nguyễn, Nguyễn Phước, Trịnh Cung, Nguyên Khai, Lê Tài Ðiển, Nguyễn Ðồng, Nguyễn Thị Hợp, Hồ Thành Ðức, Bé Ký.
Tranh Thái Tuấn một mình tách hẳn khỏi đám đông. Ðó là những bảng màu nhạt lạnh, nhiều màu đen, xám, xanh rêu, xanh lục, mênh mông không gian, nếu khoảng trống là không gian. Ngoài phụ nữ ông ưa vẽ đàn ông trong vai hề, hay vai diễn viên. Còn nhớ tôi thực sự quen ông là vào năm 1960, khi đang ở chùa Phú Thạnh. Ngôi chùa có mặt tiền mở ra đường Nguyễn Huỳnh Ðức, mặt hông phía phải là con ngõ trổ ra đường Trương Tấn Bửu. Lúc đầu ở một mình, sau họa sĩ Nguyễn Trung chia một nửa căn nhà để làm xưởng vẽ, tôi cũng có vẽ một tấm tranh sơn dầu để ở xó nhà. Nguyễn Trung cũng để ở xó nhà một bức, màu bleue nhạt. Bức này đem dự Cuộc Triển Lãm Mùa Xuân 1960 hay 61, và được trao Huy Chương Bạc. Một hôm đang ở nhà thì Nguyễn Trung đi đâu về, dẫn theo họa sĩ Thái Tuấn. Thấy anh ngó tấm tranh với bảng màu nâu sẫm đỏ màu máu bầm, tôi khoe là tranh của tôi. Anh không có vẻ ngạc nhiên gì, nhưng chăm chú hơn. Vẽ tiếp đi nhé, anh bảo tôi.
Thái Tuấn tên thật là Nguyễn Xuân Công, ra đời ở Hà Nội năm 1917, vậy lúc gặp nhau lần đầu anh 43 tuổi, tôi 22. Suốt thời gian quen biết, sau Tháng Tư 75, chúng tôi vẫn thường trao đổi thư từ, đôi khi thư anh kèm theo một tấm tranh vẽ trên giấy croquis, đôi khi là một bài thơ, thảng hoặc là một bài tiểu luận ngắn.
Lúc 4 giờ sáng thức dậy, nấu xong một ly cà phê expresso, lục mở di cảo ra xem, tôi thấy bản sao cái catalogue khi người Pháp tổ chức triển lãm tranh cho anh ở La Maison Francaise tại Tòa Ðại Sứ Pháp ở thủ đô Washington, D.C. Phần tái bút Thái Tuấn gọi tôi bằng ông: “T.B. Cái tờ catalogue phê bình Tây nó phong cho mình là Maitre ông thấy có ‘xướng’ không?”
Lá thư chót tôi tìm được trong mớ giấy tờ anh gửi cho tôi thấy đề năm 2005. Cũng sung sướng tìm thấy 3 tấm tranh “original” tặng tôi, có một tấm tranh mầu khỏa thân phía sau là 4 câu thơ anh viết tay:
Trần truồng tự thuở nằm nôi
Ðến khi từ giã cuộc chơi vẫn truồng...
(Thái Tuấn, 2005)
Ðó chỉ là hai câu trích trong bài thơ anh vịnh tấm tranh tố nữ, ký 2005, lúc 88 tuổi. Vì tấm tranh quá khổ cho một cái phong bì, và cái phong bì quá khổ đã bị vứt đâu mất, nên không rõ lúc làm bài thơ này anh ở đâu, hải ngoại hay Sài Gòn. Chỉ biết hai năm sau, anh mất ở Sài Gòn, ngày 26 tháng 9, 2007. (Tài liệu từ Hồi Ký Viên Linh, chưa in)

Chú thích:
*Trí Lân Vân Cẩn là một “cụm từ” chỉ bốn nhà danh họa Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Tường Lân, Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn. Ðọc thêm: Nguyễn Hải Yến: “Hội Họa Hà Nội, Những Kí Ức Còn Lại,” Picture Art Foundation xuất bản, 2010. www.pictureartfoundation.org.

SOURCE
NGUOI-VIET ONLINE 

Vì bản chất dân tộc Việt?


Cập nhật lúc: 4/11/2012 9:22:14 PM
Vì bản chất dân tộc Việt?









Thương xá Phúc Lộc Thọ ở Little Saigon

LGT: Đã có những cuốn sách như “Người Mỹ Xấu Xí”, “Người Nhật Xấu Xí”, “Người Trung Hoa Xấu Xí”... Nhưng chỉ mới có những mẫu chuyện “Người Việt Xấu Xí” được đăng đó đây trên báo in hay trên các mạng lưới. Người Việt cũng như các dân tộc khác đều có nhiều đức tính tốt nhưng không thiếu những tính xấu. Vấn đề là cần biết để sửa đổi. Bài viết sau đây của nhà báo Lữ Giang ở California.

* * *

Ngày đầu năm đi ra phố Bolsa uống cà phê, gặp người nào nhìn tôi cũng cười cười... Hỏi đầu năm có chuyện gì vui vậy, họ lại cười và nói: “Cua Mỹ và cua Việt”!

Thì ra rất nhiều người đã thích thú khi đọc bài “Chỉ là chuyện giấc mơ” của tôi, trong đó tôi có kể lại chuyện “Người Việt xấu xa” của Dan Huynh nói về bản chất người Việt. Câu chuyện do Dan Huynh kể đại khái như sau:

Có hai người đi bắt cua, họ bỏ cua Việt và cua Mỹ vào hai thùng khác nhau. Một người bảo người kia chỉ cần đậy nắp thùng cua Mỹ, không cần đậy nắp thùng của Việt. Được hỏi tại sao, người này giải thích:

“Cua Mỹ khác hẳn cua Việt vì nó biết cách nằm chồng lên nhau, cho các con khác bò lên người để ra khỏi miệng thùng, còn cua Việt Nam thì con nào vừa định ngoi lên đã có con bên cạnh níu chân kéo xuống nên không bao giờ lên đến miệng thùng, khỏi cần đậy nắp!”

Đa số đã lấy làm thích thú vì cho rằng chúng tôi đã dám nói lên những bản chất khá phổ biến của cộng đồng người người Việt hải ngoại, nhưng một số nhỏ bị “chạm nọc” đã vẫy vùng hung hãn bằng cách “chọi đá đường rầy xe lửa”!

Một câu hỏi được đặt ra: Cùng những cơ hội giống nhau, tại sao Đại Hàn, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore ngóc đầu lên được, còn Thái Lan, Philippines, Việt Nam, Mã Lai, Miến Điện… không ngóc đầu lên nổi? Phải chăng vì “bản chất dân tộc”?

Nhân ngày đầu năm, chúng ta thử xem bản chất thực sự của người Việt như thế nào theo những cách nhìn khác nhau, để từ đó loại bỏ cái xấu và xây đắp những cái tốt, đưa dân tộc đi lên.

Người Mỹ nhìn người Việt


Viện Nghiên Cứu Xã Hội Học Hoa Kỳ (American Institute for Social Research) sau khi nghiên cứu đã nói lên 10 đặc tính căn bản của người Việt, xin tạm dịch như sau:

1.-  Cần cù lao động nhưng dễ thỏa mãn.

2.-  Thông minh, sáng tạo khi phải đối phó với những khó khăn ngắn hạn, nhưng thiếu những khả năng suy tư dài hạn và linh hoạt.

3.-  Khéo léo nhưng ít quan tâm đến sự hoàn thiện cuối cùng các thành phẩm của mình.

4.-  Vừa thực tế vừa có lý tưởng, nhưng lại không phát huy được xu hướng nào thành những nguyên lý.

5.-  Yêu thích kiến thức và hiểu biết nhanh, nhưng ít khi học sự việc từ đầu đến cuối, nên kiến thức không có hệ thống hay căn bản. Ngoài ra, người Việt không học vì lợi ích của kiến thức (lúc nhỏ học vì gia đình, lớn lên học vì sĩ diện hay vì những công việc tốt).
[when small, they study because of their families; growing up, they study for the sake of prestige or good jobs]

6.  Cởi mở và hiếu khách nhưng sự hiếu khách của họ không kéo dài.

7.  Tiết kiệm, nhưng nhiều khi hoang phí vì những mục tiêu vô nghĩa (vì sĩ diện hay muốn phô trương).
[to save face or to show off].

8.-  Có tinh thần đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau chủ yếu trong những tình huống khó khăn và nghèo đói, còn trong điều kiện tốt hơn, đặc tính này ít khi có.

9.-  Yêu hòa bình và có thể chịu đựng mọi thứ, nhưng thường không thẳng thắn vì những lý do lặt vặt, vì thế hy sinh những mục tiêu quan trọng vì lợi ích của những mục tiêu nhỏ.

10.-  Và sau cùng, thích tụ tập nhưng thiếu nối kết để tạo sức mạnh (một người có thể hoàn thành một nhiệm vụ xuất sắc; 2 người làm thì kém, 3 người làm thì hỏng việc).
[one person can complete a task excellently; 2 people do it poorly, and 3 people make a mess of it].
Những phân tích trên đây cho chúng ta thấy người Mỹ đã hiểu rất rõ người Việt. Tại  sao người Việt lại có những đặc tính như thế này?

Người xưa cũng đã nhận ra


Học giả Trần Trọng Kim (1883 – 1953) khi viết bộ Việt Nam Sử Lược, ấn hành lần đầu tiên năm 1919, cũng đã phân tích khá rõ ràng những đặc tính của người Việt và những yếu tố tạo nên những đặc tính đó. Đa số người Việt lớn tuổi, khi còn nhỏ đều đã được học bộ sử này. Trong phạm vi một bài báo, chúng tôi chỉ xin trích lại dưới đây một số đoạn chính ông viết về đặc tính của người Việt.
Trong bài tựa, ông nói ngay:

“Người mình có ý lấy chuyện nước nhà làm nhỏ mọn không cần phải biết làm gì. Ấy cũng là vì xưa nay mình không có quốc văn, chung thân chỉ đi mượn tiếng người, chữ người mà học, việc gì cũng bị người ta cảm hóa, chứ tự mình thì không có cái gì là cái đặc sắc, thành ra thật rõ như câu phương ngôn: “Việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng!”

“Cái sự học vấn của mình như thế, cái cảm tình của người trong nước như thế, bảo rằng lòng vì dân vì nước mở mang ra làm sao được?”

“Thời đại Bắc thuộc dai dẳng đến hơn một nghìn năm, mà trong thời đại ấy dân tình thế tục ở nước mình thế nào, thì bấy giờ ta không rõ lắm, nhưng có một điều ta nên biết là từ đó trở đi, người mình nhiễm cái văn minh của Tàu một cách rất sâu xa, dẫu về sau có giải thoát được cái vòng phụ thuộc nước Tàu nữa, người mình vẫn phải chịu cái ảnh  hưởng của Tàu. Cái ảnh hưởng ấy lâu ngày đã trở thành ra cái quốc túy của mình, dẫu ngày nay có muốn trừ bỏ đi, cũng chưa dễ một mai mà tẩy gội cho sạch được. Những nhà chính trị toan sự đổi cũ thay mới cũng nên lưu tâm về việc ấy, thì sự biến cải mới có công hiệu vậy.”

Ở  Chương VI nói về “Kết Quả của Thời Bắc Thuộc”, ông có nhận định rõ hơn:
“Nguyên nước Tàu từ đời Tam Đại đã văn minh lắm, mà nhất là về đời nhà Chu thì cái học thuật lại càng rực rỡ lắm. Những học phái lớn như là Nho giáo và Lão giáo, đều khởi đầu từ đời ấy. Về sau đến đời nhà Hán, nhà Đường, những học phái ấy thịnh lên, lại có Phật giáo ở Ấn độ truyền sang, rồi cả ba đạo cùng truyền bá đi khắp cả mọi nơi trong nước. Từ đó trở về sau nước Tàu và những nước chịu ảnh hưởng của Tàu đều theo tông chỉ của những đạo ấy mà lập ra sự sùng tín, luân lý và phong tục tương tự như nhau cả…”

“Khi những đạo Nho, đạo Khổng, đạo Phật phát đạt bên Tàu, thì đất Giao châu ta còn thuộc về nước Tàu, cho nên người mình cũng theo những đạo ấy. Về sau nước mình đã tự chủ rồi, những đạo ấy lại càng thịnh thêm, như là đạo Phật thì thịnh về đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê và nhà Lý, mà đạo Nho thì thịnh từ đời nhà Trần trở đi.

“Phàm phong tục và chính trị là do sự học thuật và tông giáo mà ra. Mà người mình đã theo học thuật và Tông giáo của Tàu thì điều gì ta cũng noi theo Tàu hết cả. Nhưng xét ra thì điều gì mình cũng thua kém Tàu, mà tự người mình không thấy có tìm kiếm và bày đặt ra được cái gì cho xuất sắc, gọi là có cái tinh thần riêng của nòi giống mình, là tại làm sao? ...

“Người mà cả đời không đi đến đâu, mắt không trông thấy cái hay cái dở của người, thì tiến hóa làm sao được? Mà sự học của mình thì ai cũng yên trí rằng cái gì đã học của Tàu là hay, là tốt hơn cả: từ sự tư tưởng cho chí công việc làm, điều gì mình cũng lấy Tàu làm gương. Hễ ai bắt chước được Tàu là giỏi, không bắt chước được là dở. Cách mình sùng mộ văn minh của Tàu như thế, cho nên không chịu so sánh cái hơn cái kém, không tìm cách phát minh những điều hay tốt ra, chỉ đinh ninh rằng người ta hơn mình, mình chỉ bắt chước người ta là đủ.

“Địa thế nước mình như thế, tính chất và sự học vấn của người mình như thế, thì cái trình độ tiến hóa của mình tất là phải chậm chạp và việc gì cũng phải thua kém người ta vậy.”

Đọc cuốn “Lều chõng”, một tiểu thuyết phóng sự của nhà văn Ngô Tất Tố (1894 - 1954), chúng ta có thể thấy rõ nền học vấn của người Tàu mà người Việt rập khuôn theo đã kềm hảm con người như thế nào.

Ông vốn là một nhà Nho, đã từng tham dự các kỳ thi hương dưới triều Nguyễn, nên đã phản ánh một cách trung thực những oái ăm của các kỳ thi này và nêu lên sự sụp đổ tinh thần của những nho sĩ suốt đời lấy khoa cử làm con đường tiến thân nhưng lại bị hoàn toàn thất vọng.

“Trước là đẹp mặt sau là ấm thân”


Nước Việt Nam bị Pháp đô hộ gần 100 năm, đã cởi bỏ nền học vấn của Trung Hoa, tiếp thu nền học vấn mới của phương Tây, nhưng vẫn còn giữ lại nhiều nét căn bản của nền văn hóa Trung Hoa. Có nhiều hủ tục trong quan, hôn, tang, tế mà cuộc Cách Mạng Văn Hoá của Trung Quốc đã phá sạch, nhưng nhiều người Việt vẫn cố giữ lại như những thứ “quốc hồn quốc túy”.

Bài tục giao sau đây vẫn còn là tiêu chuẩn và mục tiêu thăng tiến của gia đình và con người Việt Nam:

Con ơi! muốn nên thân người

Lắng tay nghe lấy những lời mẹ cha


Gái thì giữ việc trong nhà

Khi vào canh cửi khi ra thêu thùa

Trai thì đọc sách ngâm thơ

Dồi mài kinh sử để chờ kịp khoa

Mai sau nối được nghiệp nhà

Trước là đẹp mặt sau là ấm thân


Bây giờ người con gái không còn chỉ “giữ việc trong nhà”, và người con trai không còn chỉ “đọc sách ngâm thơ” mà đã đi vào khắp mọi lãnh vực của cuộc sống, nhưng mục tiêu cuối cùng vẫn chỉ là “Trước là đẹp mặt sau là ấm thân”.

Trong nước, tiêu chuẩn của cuộc sống là có nhà sang cửa rộng, có xe hơi, có con đi du học ngoại quốc...

Tiêu chuẩn ở hải ngoại cũng thế thôi: Đi dâu cũng nghe khoe nhà trên cả triệu bạc, xe loại sang trọng nhất, con đang học bác sĩ, dược sĩ, kỹ sư... Gần như không nghe ai khoe những công trình đang nghiên cứu hay thực hiện để đưa con người, cộng đồng và đất nước đi lên. Tất cả chỉ tập trung vào hai tiêu chuẩn là “đẹp mặt” và “ấm thân”.

Với mục tiêu như thế, chúng ta không ngạc nhiên khi nhìn ra phố Bolsa, thủ đô của VNCH nối dài, đa số các cơ sở kinh doanh lớn đều không phải của người Việt. Tuy bên ngoài người Việt gốc Hoa đứng tên, nhưng đàng sau là các bang hội của Tàu. Thương xá Phúc Lộc Thọ vốn được coi là “Quốc Hội VNCH” ở Bolsa, nhưng phía trước là tượng các danh nhân Trung Hoa và tên thương xá được viết vừa bằng chữ Tàu vừa bằng chữ Việt. Houston cũng thế thôi.

Nếu mỗi gia đình và mỗi cá nhân chỉ lấy những mục tiêu như trên làm mục tiêu của cuộc sống và truyền từ đời nọ sang đời kia, còn lâu cộng đồng và đất nước với ngóc đầu lên được.

Nhìn qua người Hoa

Trong khi người Việt nhiễm văn hoá Trung Quốc đã trở thành như đã nói trên, người Hoa khi ra hải ngoại lại thích ứng rất nhanh nên vươn lên khá nhanh và khá cao. Những đặc tính của người Hoa ở hải ngoại được mô tả như sau:

1.- Cần cù, việc gì cũng làm

2.- Tiết kiệm, không sống khoe khoang hay xa hoa.

3.- Khởi sự từ buôn bán nhỏ.

4.- Đơn vị kinh tế gia đình: Gia trưởng đóng vai trò quan trọng. Tài sản có thể truyền từ đời nọ sang đới kia.

5.- Hình thành những xí nghiệp không theo một hình thức chặt chẽ, không theo những quy luật nhất định, tất cả đều dựa vào chữ TÍN.

6.- Không làm những công việc có tính cách phức tạp hay quá to lớn, chỉ thích kinh doanh vào những lãnh vực đơn giản. Khi cần làm ăn lớn thường chia ra làm nhiều công ty con.

7.- Móc nối với chính quyền và cá nhân khác rất giỏi. Không tham gia chính quyền hay đảng phái nào, nhưng thường nắm được các nhân vật có địa vị quan trọng có thể bao che hay hỗ trợ cho làm ăn.
(Tại Indonesia, người Hoa chỉ chiếm từ 3% đến 4% dân số, nhưng làm chủ 70% tài sản ở đất nước này với khoảng 160 trong số 200 xí nghiệp lớn của Indonesia. Gia đình ông Liem Sioe Liong, làm chủ xí nghiệp Salim với số vốn khoảng 9 tỷ mỹ kim, nhờ quen biết lớn với Suharto).

8.- Không thích tranh tụng, kiện cáo. Thường tìm cách dàn xếp mỗi khi có đụng chạm hay bị bắt vì vi phạm luật pháp.

9.- Phạm vi hoạt động gần như không biên giới.

10.- Thích ứng rất nhanh với những biến đổi của thời cuộc.

Trong bài “Mạng lưới kinh tế của người Hoa hải ngoại”, ông Phạm Văn Tuấn đã nhận thấy như sau về các hoạt động kinh doanh của người Hoa ở hải ngoại:

“Khi bắt đầu bước vào ngành thương mại, các người Hoa hải ngoại đã nhận được sự giúp đỡ từ các nhóm, các bang hay các cộng đồng của họ. Các hội tương trợ này được tổ chức căn cứ vào gia đình, hay nguồn gốc địa phương, hay thổ ngữ, chẳng hạn như các bang người Hẹ, Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến. Các hội hay các bang này đã hoạt động như một thứ ngân hàng nhờ đó người Hoa có thể mượn tiền, trao đổi tin tức, tuyển mộ nhân công, giới thiệu thương nghiệp, hay thương lượng các dịch vụ.

Người Hoa hải ngoại thường tôn trọng chữ Tín, họ làm ăn bằng ước hẹn miệng và sự tin cẩn lẫn nhau, và họ không cần phải ký kết các văn bản, các giao kèo. Nếu một thương gia nào vi phạm lời hứa, người đó sẽ không bị truy tố ra pháp luật mà bị ghi vào sổ đen của các nhóm, các bang, đây là một tệ hại hơn, vì tất cả mạng lưới làm ăn của các cộng đồng người Hoa đều sẽ biết rõ sự việc, và việc kinh doanh của người vi phạm kể như bị chấm dứt.”

Số vốn của người Hoa hiện đang sống ở ngoại quốc được ước lượng khoảng 4.000 tỷ USD.

Quay lại nhìn mình


Cuộc kiểm tra năm 2010 cho thấy ở Mỹ hiện nay người Hoa chiếm 1%, còn người Việt là 0,5%, tức 1.548.449. Người Việt ở Cali là 581.946 nguời.

Tại Little Saigon ở Orange County, được coi thủ đô của VNCH nối dài, thành trì chống cộng của thế giới tự do và tiền đồn chống cộng ở Đông Nam Á, có đến 3 chính phủ và ba ban đại diện cộng đồng: Ba chính phủ là chính phủ Nguyễn Hữu Chánh, chính phủ Đào Minh Quân và chính phủ Hồ Văn Sinh (thay thế Nguyễn Bá Cẩn). Ba ban đại diện cộng đồng là cộng đồng Nguyễn Xuân Vinh, cộng đồng Nguyễn Tấn Lạc và cộng đồng Nguyễn Xuân Nghĩa. Cộng Đồng này đang chửi cộng đồng kia là tiếm danh.

Mặc dầu lực lượng hùng hậu như thế, nhưng khi nhóm VietWeekly chưa đến 10 người nổi lên ủng hộ Hà
Nội giữa phố Little Saigon, chọc tức các đoàn thể chống cộng và cộng đồng mà chẳng ai làm gì được.

Trong khi đó, các “chiến sĩ chống cộng” vẫn tiếp tục chụp mũ nhau không ngừng nghỉ trên các diễn đàn.
Rất nhiều “nhân tài” của người Việt đang chuẩn bị ra tranh cử các chức vụ dân cử tại địa phương, thành phố, tiểu bang và có thể liên bang, trong cuộc bầu cử sắp đến. Mục tiêu được mô tả là để bảo vệ và nói lên tiếng nói của cộng đồng.

Trái lại, chúng tôi không thấy có một tổ chức chính trị nào của người Tàu hoạt động ở đây và không nghe nói họ sẽ đưa ai ra tranh cử.

Tôi nhớ lại trong cuộc bầu cử Tổng Thống Mỹ năm 2004, lúc đó liên danh George W. Bush đang tranh với liên danh John Kerry. Tôi có nhờ ông Tăng Kiến Hoa dẫn đến gặp một vài bang trưởng Tàu xem họ bầu cho ai. Họ cười và nói: Quy luật bầu cử là phù thịnh bất phù suy. Cứ thấy ai chắc thắng là đóng tiền cho người đó, không cần biết đường lối họ như thế nào. Họ đã nhận tiền là khi đắc cử họ sẽ giúp mình.

Nếu hai người ngang ngữa, đóng tiền cho cả hai.

Tôi hỏi người Tàu không có ai ra tranh cử dân biểu hay nghị sĩ gì sao. Họ cũng cười và nói: Người mình có vào được quốc hội cũng chẳng làm được chuyện mình muốn. Cứ thấy người nào có thế lực là đóng tiền cho người đó.

Thì ra người Tàu bầu cử bằng tiền chứ không phải bầu cử bằng phiếu như người Việt!

Tôi nhớ lại trong cuộc bầu cử năm 2000, vì hai liên danh George W. Bush và Albert A. Gore ngang ngữa, nên người Tàu đóng tiền cho cả hai. Tây An Tự và Thiền Sư Thanh Hải ở Los Angeles đã đóng tiền cho liên danh Gore nhưng lập danh sách giả những người góp tiền, bị đổ bể nên chúng ta mới biết được.

Chúng ta không mong người Việt có những nhà phát minh làm thay đổi nhân loại như John V. Blankenbaker (phát minh ra máy vi tính 1971), Bill Gates, Steve Jobs..., chúng ta chỉ mong người Việt biết quan tâm đến cộng đồng, đất nước và nhân loại nhiều hơn. Nhưng điều này quá khó. Đúng như người Mỹ đã nhận xét:

Người Việt vì những lý do vớ vẫn, có thể hy sinh những mục tiêu quan trọng vì lợi ích của những mục tiêu nhỏ (như kiếm chút danh chẳng hạn). [sacrifice important goals for the sake of small ones]

Người Việt thích tụ tập nhưng thiếu nối kết để tạo sức mạnh. Một người có thể hoàn thành một nhiệm vụ xuất sắc; 2 người làm thì kém, 3 người làm thì hỏng việc!

Chúng ta trông chờ vào thế hệ sắp đến, không bị vướng mắc với quá khứ, học được nhiều cái hay của xứ người, sẽ đưa cộng đồng và đất nước đi vào một hướng đi mới tốt đẹp hơn.

Ngày 24.1.2012

Lữ Giang

SOURCE
TIVI TUAN SAN

Người chụp cảnh Hòa thượng Quảng Đức tự thiêu đã qua đời, thọ 81 tuổi



Cập nhật lúc: 8/29/2012 12:52:46 AM
Người chụp cảnh Hòa thượng Quảng Đức tự thiêu đã qua đời, thọ 81 tuổi



Malcolm Browne

Nhiếp ảnh gia Malcolm Browne, nổi tiếng nhất với bức ảnh chụp cảnh tự thiêu của hòa thượng Thích Quảng Đức, qua đời hôm 27/8.

Tấm ảnh lịch sử, được ông chụp ngày 11/6/1963 khi đang làm cho AP, đã khiến dư luận quốc tế bị sốc, đánh dấu bước ngoặt của khủng hoảng Phật giáo và dẫn đến sự sụp đổ của chính quyền Tổng thống Ngô Đình Diệm.
Hãng tin AP cho biết ông qua đời vào tối thứ Hai 27/8 ở tiểu bang Hoa Kỳ New Hampshire.

Ông được chẩn đoán mắc bệnh Parkinson năm 2000 và trải qua những năm cuối đời trên xe lăn.

Người vợ gốc Việt, mà ông gặp ở Sài Gòn, cho biết ông được xe cấp cứu đưa vào bệnh viện tối 27/8 và rồi qua đời.

Bức ảnh đã gây chấn động thế giới


Tấm ảnh lịch sử

Sinh năm 1931 ở New York, Malcolm Browne tốt nghiệp đại học với bằng hóa học.

Ông nhập ngũ năm 1956 và được gửi đến Hàn Quốc để lái xe tăng. Nhưng tình cờ ông viết báo cho một tờ báo quân đội, và từ đó quyết định đổi sang nghiệp báo chí.

Ông gia nhập hãng tin AP năm 1960 và được gửi đến Sài Gòn một năm sau để dẫn dắt văn phòng.

Hai đồng nghiệp, nhiếp ảnh gia Horst Faas và nhà báo Peter Arnett, cùng có mặt ở Sài Gòn trong năm đó. Bộ ba này, vào năm 1966, sẽ giành giải Pulitzer cho tường thuật của họ về Việt Nam.

Những người này, cùng các phóng viên đến miền Nam Việt Nam đầu tiên như David Halberstam, Neil Sheehan, Charles Mohr, Nick Turner, viết nhiều về tham nhũng và yếu kém quân sự.

Họ bị những người chỉ trích ở Sài Gòn và Washington cáo buộc là giúp đỡ đối thủ cộng sản.
Vào ngày 11/6/1963, xảy ra cuộc tự thiêu của hòa thượng Thích Quảng Đức ở ngã tư đại lộ Phan Đình Phùng và phố Lê Văn Duyệt, phản đối chế độ Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo.

Mặc dù nhiều phóng viên phương Tây được báo trước về sự kiện, nhưng chỉ có Browne tin tưởng và có mặt để chứng kiến.

Các tấm ảnh chụp cảnh vị hòa thượng tự thiêu trong cao trào khủng hoảng chính trị ở miền Nam đã được truyền đi khắp thế giới.

Tại Nhà Trắng, Tổng thống Kennedy nói với ông Henry Cabot Lodge, sắp sửa làm Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn, rằng ông “bị sốc” vì các tấm ảnh và rằng “chúng ta phải làm gì về chế độ đó”.
“Đó là sự mở đầu nổi loạn, và nó kết thúc bằng việc lật đổ và giết ông Diệm,” ông Browne hồi tưởng vào năm 1998.

Năm 1964, ông cùng với David Halberstam của báo New York Times nhận chung giải Pulitzer nhờ tường thuật ở Việt Nam.

(Theo BBC)

SOURCE
TIVI TUAN SAN