Monday 30 November 2009

Vũ trang cho ngư dân có hệ quả gì?



Người dân đảo Lý Sơn sẽ nhận trách nhiệm 'tự vệ' tuyến đầu trên biển?

Quốc Hội Việt Nam đã thông qua Luật về dân quân, tự vệ, theo đó người dân phải tham gia dân quân, tự vệ, các địa phương phải tổ chức lực lượng dân quân, các cơ quan phải tổ chức tự vệ để đóng góp cho nền quốc phòng toàn dân.

Theo báo Nhân Dân hôm 23/11/2009, dự thảo Luật dân quân tự vệ được thông qua với tỷ lệ hơn 89% số đại biểu tán thành và sẽ có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/7/2010.

Áp dụng cho tranh chấp trên biển, mỗi đội tàu cá sẽ có một tổ vừa đánh cá, vừa thi hành nhiệm vụ của dân quân, tự vệ.

Dân quân, tự vệ biển sẽ được trang bị súng và sẽ phối hợp với biên phòng, cảnh sát biển và hải quân để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và bảo vệ ngư dân.

Với Luật về dân quân, tự vệ và với cách áp dụng trên, tư cách của ngư dân có vũ trang và thi hành nhiệm của dân quân, tự vệ sẽ không phải là dân sự mà sẽ là quân sự. Điều này có một số ý nghĩa pháp lý, ngoại giao.

Theo luật quốc tế

Trước hết, Việt Nam phải bảo đảm rằng những ngư dân này tuân thủ những phần trong Công ước Geneva về tù binh liên quan đến dân quân (militia), nhằm, trong trờng hợp bị các nước khác bắt, họ sẽ được quy chế tù binh bảo vệ.

Thứ nhì, trong lãnh vực tranh chấp Biển Đông, Việt Nam có thể bị phê bình rằng đã cho thêm vào tranh chấp một lực lượng quân sự mới và đã quân sự hoá ngư dân.

Ngư dân thi hành nhiệm vụ dân quân, tự vệ vẫn không thể chiến đấu một cách ngang hàng với các tàu ngư chính hay tàu chiến Trung Quốc.

TS Dương Danh Huy

Thứ ba, nếu xảy ra xung đột vũ trang giữa dân quân, tự vệ với thường dân, hay cơ quan dân sự, hay lực lượng quân sự của một nước khác thì sự kiện đó sẽ có nghĩa như là xung đột giữa một lực lượng quân sự của Việt Nam và một trong những nhóm trên.

Thứ tư, phần lớn các nước tiên tiến không sử dụng dân quân và các nước này có thể có thành kiến về dân quân, thí dụ như về huấn luyện và kỷ luật.

Điều này có thể bất lợi cho Việt Nam trong tranh cãi sau xung đột về bên nào có lỗi.

Cơ bản nhất, những ngư dân thi hành nhiệm vụ dân quân, tự vệ vẫn không thể chiến đấu một cách ngang hàng với các tàu ngư chính hay tàu chiến Trung Quốc.

Trong trường hợp xảy ra xung đột, các tàu ngư chính hay tàu chiến Trung Quốc có thể tàn sát họ và vu cáo rằng ngư dân và dân quân Việt Nam đã dùng súng cướp ngư dân Trung Quốc hay tấn công các tàu ngư chính Trung Quốc trước.

Trung Quốc sẽ viện cớ để khủng bố tất cả ngư dân Việt Nam, bất kể có vũ trang hay không, áp lực họ ra khỏi vùng biển mà nước này yêu sách.

Nếu ngư dân không vũ trang chạy vào Hoàng Sa trú bão mà bị Trung Quốc bắn, bắt, cướp thì rõ ràng là Trung Quốc sai. Nếu ngư dân Việt Nam có vũ trang, hay có thể có vũ trang, thì Trung Quốc sẽ có thêm cớ để bắn, ngăn cản và xâm phạm ngư dân Việt Nam tránh bão.

Việt Nam nên tổ chức những đội bảo vệ cho ngư dân, nhưng những đội bảo vệ này chỉ nên sử dụng những phương tiện và phương pháp không bạo lực.

Ngoài ra, nên bảo đảm tư cách dân sự của những đội này bằng cách không cho họ là dân quân.

Nhà nước phải có mặt

Tàu cá của ngư dân Việt Nam-hình minh họa của VNN

Ai bảo vệ ngư dân?

Việt Nam phải bảo vệ ngư dân và bảo vệ chủ quyền, nhưng phải bảo vệ bằng cách tăng cường sự hiện diện của các cơ quan nhà nước trên Biển Đông. Sự hiện diện này không thể chỉ gần bờ mà phải ra tới ranh giới ngoài của vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam.

Trung Quốc đã rất khôn ngoan khi dùng tàu quân sự của của họ làm các tàu ngư chính. Như vậy các tàu này vừa có sức mạnh vũ trang vừa có vẻ là cơ quan hành chính dân sự.

Như vậy Trung Quốc vừa tránh được vẻ dùng một lực lượng quân sự để đối trọng thường dân, vừa tạo vẻ thực thi chủ quyền ở cấp nhà nước một cách hoà bình - mà thực thi chủ quyền ở cấp nhà nước một cách hoà bình là một trong những yếu tố cần thiết của chủ quyền.

Song song với việc hiện đại hoá hải quân, Việt Nam cần tăng cường sự hiện diện của các cơ quan nhà nước trên Biển Đông bằng cách tăng cường đội ngũ kiểm ngư và đội ngũ cảnh sát biển.

Có thể nói rằng trong việc bảo vệ vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý, hai đội ngũ này sẽ hữu dụng hơn hải quân, và vai trò của hải quân là hỗ trợ hai đội ngũ này khi cần thiết.

Sự khó khăn cho Việt Nam là, cho tới năm 2008, “trung bình một người trong lực lượng Thanh tra bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản phải kiểm soát 1000 km² mặt biển và khoảng 25-30 km bờ biển.

Cả nước mới chỉ có chưa đến 100 tàu thuyền làm nhiệm vụ kiểm tra, thanh tra hoạt động nghề cá trên biển, trong đó chỉ có khoảng 25% là có khả năng hoạt động cách bờ từ 50-100 hải lý [trong khi vùng đặc quyền kinh tế ra tới cách bờ 200 hải lý]...Kinh phí hoạt động kiểm tra, kiểm soát bình quân chỉ đủ cho Chi cục bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản tổ chức được từ ba tới năm chuyến biển/năm với thời lượng từ ba đến bảy ngày”.[1]

Trong tình trạng tính mạng, tài sản, kế mưu sinh của ngư dân Việt Nam bị đe doạ trong vùng đặc quyền kinh tế phù hợp với UNCLOS của Việt Nam, chủ quyền lãnh thổ bị đe doạ, chúng ta không thể chấp nhận sự thiếu thốn này.

Nếu các tàu cá hay tàu ngư chính Trung Quốc xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam hay đe doạ ngư dân Việt Nam trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam hay trong biển quốc tế thì đội ngũ kiểm ngư và đội ngũ cảnh sát biển nên là điểm tiếp xúc đầu tiên chứ không phải dân quân, tự vệ.

Hải quân Việt Nam còn thiếu nhiều tàu thuyền và trang thiết bị

Vùng đặc quyền kinh tế

Song song với những biện pháp trên, Việt Nam phải xác định và khẳng định với người dân và với quốc tế một vùng đặc quyền kinh tế hợp lý cho mình.

Việc xác định và khẳng định ranh giới vùng đặc quyền kinh tế từ hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa có thể để cho tương lai, nhưng hiện nay cần xác định và khẳng định ranh giới vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý từ những vùng lãnh thổ khác.

Nếu vũ trang cho ngư dân và có thể ra lệnh cho họ chiến đấu thì sẽ dẫn tới nhiều hy sinh nhưng sẽ không đạt được nhiều kết quả.

Nếu, thêm vào đó, ngư dân, người Việt và thế giới chưa biết rõ ràng đâu là vùng đặc quyền kinh tế mà Việt Nam đòi hỏi, đâu là biển quốc tế, đâu có thể là vùng đặc quyền kinh tế Trung Quốc, thì kết quả có thể sẽ còn ít hơn.

Việc sử dụng dân quân, tự vệ có vũ trang là một biện pháp để khắc phục những khó khăn cho Việt Nam trong tranh chấp Biển Đông, nhưng biện pháp đó có những ý nghĩa và hệ quả có thể không tốt cho ngư dân nói riêng và cho Việt Nam trong tranh chấp Biển Đông nói chung.

Điều chắc chắn là Việt Nam phải có biện pháp thích hợp để bảo vệ ngư dân và bảo vệ chủ quyền trước khi Trung Quốc cấm đánh cá trên Biển Đông vào năm 2010, như nước này đã làm mỗi năm từ năm 1999.

Tiến sĩ Dương Danh Huy, định cư tại Oxford, Anh Quốc, là thành viên Nhóm Nghiên cứu Biển Đông. Bài viết thể hiện quan điểm riêng của người viết. Tác giả xin cảm ơn Lê Minh Phiếu, Dự Văn Toán, Phạm Thu Xuân đã góp ý cho bài này.


[1] Trích từ: “Công uớc biển 1982 và chiến lược biển của Việt Nam”, TS Nguyễn Hồng Thao (Chủ biên), Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, trang 288

**************************

source

BBC Vietnamese

Sunday 15 November 2009

Phó Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ thăm VN




Ông Robert J. Newberry thăm Việt Nam từ 09/11-13/11

Ông Robert J. Newberry, Phó trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ chuyên trách tù nhân và người Mỹ mất tích trong chiến tranh, vừa có chuyến thăm Việt Nam từ 09/11-13/11.

Ông đã có các cuộc tiếp xúc với Thứ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh; Thứ trưởng, Tổng cục trưởng Tổng cục II Bộ Quốc phòng,Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh; và Phó Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh Bộ Công an, Thiếu tướng Tô Lâm.

Ngoài Bộ Ngoại giao là đối tác điều phối hoạt động tìm kiếm người Mỹ mất tích trong chiến tranh Việt Nam (MIA/POW), việc quan chức Mỹ hội kiến ngành an ninh Việt Nam kể cả quân đội và công an có thể liên quan tới chức vụ cũ của ông Newberry là Chánh văn phòng thuộc Văn phòng Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng chuyên trách An ninh châu Á-Thái Bình Dương.

Báo Việt Nam viết Thứ trưởng Phạm Bình Minh khẳng định rằng Việt Nam sẽ tiếp tục hợp tác với Hoa Kỳ trong nỗ lực tìm kiếm MIA.

Tuy nhiên ông Minh cũng "lưu ý phía Hoa Kỳ cần quan tâm đáp ứng thích đáng các yêu cầu của Việt Nam" nhất là trong lĩnh vực nhân đạo, khắc phục hậu quả chiến tranh, nạn nhân chất độc màu da cam.

Hai bên vẫn còn bất đồng trong việc giải quyết vấn đề chất độc da cam, khi Mỹ bị chỉ trích là "chối bỏ trách nhiệm", nhưng gần đây phía Hoa Kỳ đã có một số động thái giúp đỡ nhân đạo.

Phó Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đã trao lại cho Việt Nam kỷ vật được cho là của bộ đội Việt Nam hy sinh trong chiến tranh do một số gia đình người Mỹ lưu giữ.

Ông Robert J. Newberry mới nhậm chức chuyên trách tù nhân và người Mỹ mất tích trong chiến tranh từ tháng 09/2009.

Chủ đề an ninh

Ông Phó Trợ lý Bộ trưởng đã làm việc cho văn phòng Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ từ năm 1990 tới nay, và kinh qua nhiều chức vụ, trong đó có chức vụ đảm nhiệm chủ đề an ninh tại châu Á-Thái Bình Dương.
Trước đó, ông từng phục vụ trong không quân, ba lần tham gia các chiến dịch tác chiến tại Đông Nam Á.
Lĩnh vực tìm kiếm quân nhân Hoa Kỳ mất tích trong cuộc chiến Việt Nam là một trong các ưu tiên hàng đầu của các chính quyền Hoa Kỳ.

Khoảng 58.000 quân nhân Hoa Kỳ và ba triệu thường dân Việt Nam đã thiệt mạng trong cuộc chiến giữa Hoa Kỳ và nước cộng sản vùng Đông Á kéo dài hơn 30 năm. Vài ngàn người cho đến nay vẫn còn mất tích, chưa tìm được xác.

Hồi tháng 06/2009, lần đầu tiên một tàu thăm dò của hải quân Hoa Kỳ đã được phép tìm kiếm nhân đạo trong hải phận Việt Nam. Tàu khảo sát đại dương USNS Bruce C. Heezen đã được triển khai vào ngày 11/06 để thực hiện các hoạt động tìm kiếm MIA ngoài khơi Việt Nam.Trong số 1.800 quân nhân Mỹ còn mất tích, khoảng 450 người được cho là mất tích ngoài biển, hay các vùng ngập nước.

Sự kiện này được giới bình luận nhìn nhận như một 'bước tiến lớn' có tính toán của Hà Nội, nhất là trong bối cảnh gia tăng căng thẳng tại khu vực Biển Đông.

Chuyên gia về Việt Nam, giáo sư Carlyle Thayer từ Học viện Quốc phòng Hoàng gia Australia, lúc đó nhận xét: "Tuy việc tìm kiếm các địa điểm máy bay Mỹ rơi là hoạt động bình thường, quyết định của Việt Nam cho phép tàu hải quân Hoa Kỳ hoạt động trong hải phận của mình, cho dù với thủy thủ đoàn dân sự, là một quyết định chính trị."

"Tăng cường hợp tác trong lĩnh vực MIA/POW luôn ghi thêm điểm cho Hà Nội tại Washington, thế nhưng đây không phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên trong bối cảnh Trung Quốc đang gây áp lực lên các tuyên bố chủ quyền của Việt Nam tại Biển Đông."

******************

source

BBC Vietnamese

Wednesday 11 November 2009

'Không xem được lễ 09/11'



Buổi lễ đánh dấu 20 năm ngày Tường Berlin sụp đổ được truyền đi toàn thế giới

Nhiều người nước ngoài làm việc tại Hà Nội cho BBC biết họ không xem được chương trình của các hãng truyền thông nước ngoài truyền hình trực tiếp kỷ niệm 20 năm ngày Bức Tường Berlin sụp đổ.

Người ta tin rằng đây là sự kiểm duyệt một sự kiện mà Việt Nam không muốn nhắc đến, mặc dù không rõ đây là chủ trương từ chính phủ hay chỉ của một vài công ty truyền hình.

Thứ Hai đầu tuần này, nhiều nguyên thủ quốc gia đã có mặt ở Đức cho buổi lễ kỷ niệm 20 năm ngày sụp đổ Bức tường Berlin, đưa tới thống nhất nước Đức và kết thúc Chiến tranh Lạnh.

Thủ tướng Đức Angela Merkel, cùng cựu lãnh đạo Liên Xô Mikhail Gorbachev và lãnh đạo dân chủ Ba Lan Lech Walesa, đã bước qua điểm mở biên giới lần đầu năm 1989 giữa Đông và Tây Berlin.

Trong khi truyền thông và báo chí Việt Nam im lặng cả trước và trong ngày 09/11, nhiều người hy vọng có thể được thông tin từ các kênh nước ngoài trong hệ thống truyền hình cáp.

Lý do kỹ thuật?

Nhưng tại Hà Nội, BBC được cho biết nhiều người đã không xem được buổi lễ vì lý do "kỹ thuật".

Mặc dù đăng ký hệ thống truyền hình cáp, nhưng trên màn ảnh của nhiều khách hàng tại Hà Nội chỉ hiện ra thông báo thử nghiệm kỹ thuật trong ít nhất một giờ đồng hồ trước khi trở lại bình thường.

Dường như một sự kiểm duyệt nếu có đã không xảy ra ở quy mô toàn quốc, vì ít nhất một khách hàng tại TP. HCM cho biết ông vẫn xem được buổi lễ hôm 09/11 qua truyền hình số vệ tinh DTH.

Một nhà hoạt động từ thiện người Anh ở Hà Nội cho BBC Tiếng Việt hay ông không xem được phần về lễ ở Berlin trên BBC World qua truyền hình cáp do một công ty Việt Nam cung cấp nhưng không biết rõ mạng đó là gì.

Giới báo chí nước ngoài thì bàn tán tin chưa được kiểm chứng rằng có thể cả chuyên mục Berlin của CNN hôm đó cũng bị ngăn.

Các kênh này đều phát trực tiếp bằng tiếng Anh nên sự việc đầu tiên được giới người nước ngoài ở Việt Nam chú ý, sau mới lan ra các mạng tiếng Việt.

Trong những ngày trước và sau buổi lễ, truyền thông Việt Nam hầu như giữ im lặng trước sự kiện được xem là mở đường cho sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu năm 1989.

Trang mạng báo Sài Gòn Giải Phóng thuộc số hiếm hoi đưa một bản tin ngắn về việc nước Đức "kỷ niệm 20 năm ngày Bức tường Berlin sụp đổ".

Bản tin này viết bức tường "trở thành một biểu tượng của Chiến tranh Lạnh" và rằng "ngày 9-11-1989, bức tường bị phá hủy".

Truyền thông quốc tế vẫn nhắc lại chuyện một biên tập viên nổi tiếng tại Tp HCM "bị mất việc" vì viết bài đ́ến thăm Bảo tàng Bức tường Berlin ở Đức.

Tuy thế, một nhà báo kỳ cựu ở Hà Nội nói rằng ông không tin việc kênh truyền hình cáp như VTC hay mạng nào khác ngăn chuyên mục về Berlin là có nguyên nhân chính trị từ trên xuống vì theo ông, chính giới Việt Nam đã coi các sự kiện ở Đông Âu trước đây là 'thực tế lịch sử'.

Ông cũng cho hay đã có không ít trường hợp công ty truyền hình cáp tự ý đưa quảng cáo vào các đoạn phim đáng ra khách hàng phải được xem toàn bộ.

Được biết lâu nay, kênh BBC World trong hệ thống VCTV ở Việt Nam luôn phát chậm lại 30 phút.

***********

source

BBC Vietnamese

Monday 2 November 2009

Cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và nền đệ nhất cộng hòa


Cập nhật lúc: 11/2/2009 7:54:30 PM
Cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và nền đệ nhất cộng hòa

LS Nguyễn Văn Chức

TT Nguyễn Văn Thiệu và TT Dương Văn Minh (phải) ngày 30.4.1975

Hồi 4:30 trưa thứ sáu, mùng 1/11/1963, nghĩa là khoảng 3 giờ sau khi tiếng súng đảo chánh bắt đầu nổ, TT Diệm gọi điện thoại cho đại sứ Lodge. Và đây là nôị dung cuộc nói chuyện lần cuôí cùng giữa vị Tổng Thống Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam vơí viên đại sứ Mỹ.

Đại sứ Lodge: Tôi nghĩ rằng tôi không được thông báo đầy đủ tin tức để có thể trả lời câu hỏi của ngài. Tôi có nghe thấy những tiếng súng nổ, nhưng không biết rõ thực hư. Vả lại bây giờ là 4:30 sáng tại Hoa Thịnh Đốn và chính quyền Mỹ có lẽ không thể đưa ra một ý kiến về vấn đề này.

Tổng thống Diệm: Nhưng chắc chắn ngài cũng có những ý niệm đại khái về vấn đề này. Dù sao, tôi cũng là một vị quốc trưởng. Tôi đã cố gắng làm bổn phận trên tất cả.

Đaị sứ Lodge: Dĩ nhiên ngài đã làm bổn phận của ngài. Như tôi đã nói với ngài lần đầu tiên sáng hôm nay, tôi khâm phục sự can đảm của ngài và khâm phục sự đóng góp to lớn của ngài đối với quê hương của ngài. Không ai có thể lấy đi cái công của ngài đối với tất cả những gì ngài đã làm. Nhưng bây giờ tôi lo ngại cho sự an toàn bản thân của ngài. Tôi được báo cáo rằng những kẻ đảm trách những việc đang xảy ra đề nghị để cho ngài và em ngài bình yên đi ra ngoại quốc nếu ngài từ chức. Ngài có nghe thấy nói điều đó không?

Tổng thống Diệm: Không (ngừng một lúc, TT Diệm nói tiếp) ngài có số điện thoại của tôi.

Đaị sứ Lodge: Vâng. Nếu tôi có thể làm được điều gì cho sự an toàn bản thân của ngài, thì xin ngài cứ gọi tôi.

Tổng thống Diệm: Tôi đang tìm cách lập lại trật tự.

Về cuộc nói chuyện nói trên giữa TT Diệm và đại sứ Lodge chúng ta chỉ cần ghi nhận ba điểm sau đây:

Thứ nhất: cái bất lương của đại sứ Lodgẹ Ông đã dối trá khi nói với TT Diệm: "Tôi nghĩ rằng tôi không được thông báo đầy đủ tin tức để có thể trả lời câu hỏi của ngài. Tôi có nghe thấy tiếng súng nổ, nhưng không rõ thực hư".

Thứ hai: cái ngu dấu đầu hở đuôi của nhà ngoại giao được coi là thượng thặng của Mỹ. Thật vậy, ở câu trên, đại sứ Lodge vừa nói với TT Diệm rằng ông chỉ nghe thấy tiếng súng nổ, mà không rõ thực hư. Thì ngay câu dưới ông lại nói với TT Diệm rằng: "Tôi được báo cáo rằng những kẻ đảm trách những việc đang xảy ra đề nghị để cho ngài và em ngài đi ra ngoại quốc nếu ngài từ chức".

Thứ ba: cái khí phách của TT Diệm. Đến phút chót, và trong cơn nguy khốn, trước mặt ngoại bang, ông vẫn giữ được thể thống của một người lãnh đạo quốc gia, và tư cách của vị tổng thống một quốc gia có chủ quyền. Ông không hạ mình xuống xin ân huệ của ngoại bang. Như tổng thống Marcos của Phi Luật Tân đã hạ mình xuống xin ân huệ của Mỹ, ngày 25/2/1986.

Hồi 5:30 chiều 1/11, tức là khoảng một giờ sau cuộc điện đàm giữa TT Diệm và đại sứ Lodge, trung tướng Dung văn Minh gọi điện thoại cho ông Diệm và đòi ông Diệm phải đầu hàng. Ông Diệm từ chối không muốn nói chuyện với tướng Minh.

Hai giờ sau, tức là khoảng 7:30, tướng Minh lại gọi cho ông Diệm, ông Diệm lại từ chối không nói chuyện. Tướng Minh rất tức giận về thái độ khinh bỉ của ông Diệm.

Khoảng 8 giờ chiều, tướng Minh ra lệnh tấn công vào dinh Gia Long. Người được chọn để thi hành cuộc tấn công là đại tá Nguyễn văn Thiệu, một sĩ quan công giáo, lúc đó chỉ huy sư đoàn 5 bộ binh.

Một điều mà nhóm đảo chánh đã không ngờ đến, là khoảng 8 giờ chiều hôm đó, anh em ông Diệm đã lên một chiếc xe hơi màu đen do ông Cao Xuân Vỹ lái, bí mật ra khoải dinh Gia Long và đến tạm trú tại nhà Hoa kiều Mã Tuyên.

Vào lúc 3 giờ sáng ngày 2/11, đại tá Thiệu mở nhiều đợt tấn công với thiết giáp và pháo binh vào dinh Gia Long. Nhưng các cuộc tấn công ấy đã bị đẩy lui. Những quân nhân trung thành với ông Diệm đã chiến đấu vô cùng dũng cảm, mặc dù thua sút về quân số, vũ khí, mặc dù không được tiếp tế và mặc dù ở trong tình thế tuyệt vọng. Cuối cùng, nhóm đảo chánh đã phải cầu cứu trung tá Nguyễn cao Kỳ cho phi cơ phóng pháo lên bắn phá thành Cộng Hòa để hỗ trợ quân đảo chánh và áp đảo tinh thần những binh sĩ phòng thủ dinh Gia Long.

Hồi 5 giờ sáng ngày 2/11, binh sĩ trong dinh Gia Long kéo cờ trắng đầu hàng, sau khi được lệnh bằng điện thoại của ông Diệm.

Hồi 6:45, ông Diệm lại gọi điện thoại. Người nghe điện thoại là thiếu tướng Trần Thiện Khiêm. Ông Diệm cho tướng Khiêm biết ông và ông Nhu hiện đang ẩn náu tại nhà thờ cha Tam, Chợ Lớn, và yêu cầu đem xe đến đưa về bộ Tổng Tham Mưu gặp các tướng lãnh. Tướng Dương văn Minh bèn cử thiếu tướng Mai hữu Xuân, đại tá Nguyễn văn Quang, đại tá Dương ngọc Lắm, thiếu tá Dương hiếu Nghĩa và đại úy Nguyễn văn Nhung đem xe thiết giáp đi rước những kẻ đầu hàng về bộ tổng tham mưu. Đoàn xe rời bộ tổng tham mưu hồi 7:30.

Tướng Đôn cho sửa soạn một căn phòng cho anh em ông Diệm, và mời bác sỉ Đinh Xuân Minh đến "săn sóc cho Cụ".

Những gì xảy ra sau đó, đã được sách vở báo chí cũng như lịch sử ghi chép đầy đủ. (xin qúy vị đọc bài "Bọn Ác Ôn Côn Đồ" của Tú Gàn vừa post lên Net để biết rõ chi tiết diễn tiến ....bọn côn đồ phản loạn kia đã làm gì đối vởi anh em TT Diệm trên đường về từ nhà thờ cha Tam trở về tổng tham mưu?)

Khoảng 8:30, chiếc xe thiết giáp về đổ tại sân tổng tham mưu với hai xác chết trên sàn xe. TT Diệm đã bị bắn đàng sau ót, ông Nhu bị bắn ở lưng và bị đâm nhiều nhát dao trên ngực. Hai tay các nạn nhận đều bị trói quặt ra đàng sau lưng.

Cuộc đảo chánh 1963 đã kết thúc bằng cái chết của ông Diệm và em ông, Nhu.

CHÁNH NGHĨA DÂN TỘC

Người ta đã suy nghĩ và đã viết nhiều về cái chết đó.

Có người cho là quả báo nhãn tiền: ông Diệm đã phạm tội ác đối với quốc gia dân tộc, ông Diệm phải đền tội. Đó là cái nhìn của những kẻ ghét ông Diệm.

Có người lại nghiêm khắc phê phán nhóm tướng lãnh đảo chánh là mọi rợ, Ông Diệm đã ra đầu hàng, với sự thỏa thuận của các tướng lãnh. Ông Diệm phải được đối xử như một kẻ đã đầu hàng. Nếu nhóm tướng lãnh đảo chánh không coi ông Diệm là một tổng thống đầu hàng, thì ít nhất cũng nên có cái mã thượng và phẩm cách của người quân nhân "thắng trận" để đối xử với một hàng binh. Cùng lắm, họ có thể đưa ông Diệm ra trước tòa án để công lý tùy nghi định tội. Tại sao lại phải giết một cách lén lút và hèn hạ như vậy? Đó là cái nhìn của số đông, cái số đông gồm những kẻ thương mến ông Diệm, cũng như những kẻ không thương mến nhưng không thù ghét ông Diệm.

Nhưng, lịch sử có cái nhìn riêng của nó. Cái chết của ông Diệm là một sự cần thiết. Nó mang ý nghĩa trọn vẹn của một phủ định và một xác định. Nó phủ nhận và thẳng tay xóa bỏ gía trị lịch sử và gía trị dân tộc của biến cố 1963, đồng thời xác định bản chất đích thực của biến cố ấy, trước dân tộc và lịch sử. Thật vậy:

Biến cố ngày 1/11/1963 đã từng được tôn vinh là một cuộc vùng lên của nhân dân miền Nam và của cái gọi là "đại bộ phận của dân tộc VN". Vùng lên để lật đổ một bạo quyền.

Nhân dân vùng lên, vì anh em ông Diệm là "những kẻ đại tội làm hư uế chánh nghĩa dân tộc và làm suy nhược sức mạnh của miền Nam ".

Nhân dân vùng lên, vì Ngô Đình Diệm "phong kiến như vua, độc tài như cộng sản".

Nhân dân vùng lên, vì chế độ Ngô Đình Diệm là "một chế độ dùng bạo lực thay chính trị, dùng khủng bố thay vì giáo dục".

Nhân dân vùng lên, vì Ngô Đình Diệm "độc tài dộc tôn độc đảng", và vì "suốt chín năm nhà Ngô và đảng Cần Lao ngự trị tại miền Nam, ngoại trừ một thiểu số thống trị với tất cả đặt quyền đặc lợi, còn thì nhân dân phải sống khổ nhục sợ hãi không khác gì nhân dân miền Bắc đã sống dưới chế độ Tần Thủy Hoàng của Hồ Chí Minh và đảng cộng sản".

Nhân dân vùng lên, vì "chín năm cai trị là chín năm bạo trị, 15 triệu đồng bào là gần 15 triệu nạn nhân, quân đội và phong trào đấu tranh của Phật giáo chỉ là những lực lượng có duyên và phương tiện để thi hành bản án mà gần 15 triệu đã tuyên án từ 9 năm qua".

Nhân dân vùng lên, vì bạo quyền Ngô Đình Diệm "đã tiến hành những chính sách tai hại không phải cho một người mà cho cả một dân tộc", đã "dùng bạo lực để hủy diệt một tôn giáo chỉ biết có tình thương" và "đã dùng gian trá để đem nữa phần đất còn lại của dân tộc bán đứng cho CS miền Bắc"...

Trên đây là những nét chính, tổng quát hóa tội ác của họ Ngô và được liệt kê trong quyển VNMLQHT (trang 279, 232, 303, 305, 317, 330, 791, 793...) Vì những tội ác ấy, nhân dân đã phải vùng lên.

Đó không phải là luận điệu của riêng ông Đỗ Mậu, mà còn là luận điệu của cả cái tập đoàn đứng sau lưng ông ĐM, cũng là cái tập đoàn từng mệnh danh là "đại bộ phận của dân tộc".

Trong những tháng ngày sau đảo chánh, luận điệu trên dã trở thành chân lý của những kẻ làm đảo chánh, cũng như của những kẻ hoan hô đảo chánh. Các tướng Tôn Thất Đính, Dương văn Minh, Trần Thiện Khiêm, Đặng văn Quang, Lê văn Kim, Mai hữu Xuân, Trần văn Đôn, Đỗ Mậu vv... đã "anh dũng" đưa ra những lời tuyên bố lịch sử: "quân đội lãnh sứ mạng của nhân dân, đứng lên lật đổ Ngô Đình Diệm, vì chế độ Ngô Đình Diệm độc tài phản dân hại nước, và vì anh em họ Ngô bắt tay với Hà Nội để dâng hiến miền Nam cho cộng sản".

Bản tuyên cáo chính thức của hội đồng quân nhân cách mạng đọc ngày 2/11 cũng đã mở đầu bằng câu: "cuộc cách mạng của toàn dân, thành công trong vinh quang, đã chấm dứt một chế độ độc tài, tàn bạo, bất lực..... Đứng trước sự thối nát của chính quyền Ngô đình Diệm, quân đội đã nhận thức sự cần thiết phải giải thóat đồng bào để tiến tới một chế độ dân chủ thực sự, nên quân đội, dưới sự lãnh đạo của hội đồng quân nhân cách mạng, đã cương quyết vùng lên...."

Bản tuyên cáo của chánh phủ lâm thời VNCH cũng cùng một luận điệu đó. Và bản hiến ước tạm thời của chính quyền "cách mạng" cũng đã mở đầu bằng lời ca tụng "cuộc cách mạng chống độc tài đã hoàn toàn thành công với truyền thống hy sinh phục vụ tổ quốc của quân đội VNCH để dành lại cho dân tộc nền dân chủ tự do..."

Nói tóm lại, Ngô Đình Diệm là một tên trọng tội, một tên đại gian đại ác, một tên phản dân hại nước, một kẻ Toan bán đứng miền Nam cho CS... Quyền lợi của quốc gia VN, và sự sống còn của dân tộc VN đòi hỏi rằng tên đại gian đại ác ấy phải bị lật đổ và đền tội trước quốc dân.

Đó là chính nghĩa được khoác lên vai biến cố ngày 1/11/1963.

Câu hỏi được đặt ra: đã có chính nghĩa dân tộc sáng ngời như vậy tại sao "cách mạng" 1963 lại phải lén lút và hèn hạ cho người ám sát tổng thống Diệm trên chiếc xe thiết giáp di chuyển từ nhà thờ cha Tam về bộ tổng tham mưu? Tại sao không đường đường chính chính đem tên tội đồ Ngô Đình Diệm ra trước tòa, dù là tòa án nhân dân - để xét xử và sau khi tòa tuyên án, hành quyết tên tội đồ trước khi mặt trời mọc? Tại sao lại phải hành động lén lút và đê tiện nhưng những kẻ đâm thuê chém mướn?

Chánh nghĩa dân tộc của cách mạng để đâu? Liêm sỉ của cách mạng để đâu?

Khí phách của các tướng lãnh để đâu?

LIÊM SỈ CÁCH MẠNG

Hồi 8:30 ngày 2/11/63, chiếc xe thiết giáp từ nhà thờ cha Tam trở về đỗ tại sân bộ tổng tham mưu.

Khi nhìn thấy hai xác chết bê bết máu của anh em ông Diệm, các tướng đảo chánh đã hoảng hốt cực độ. Trong cơn hốt hoảng đó, họ đã tuyên bố với báo chí rằng anh em ông Diệm đã tự sát. Nhưng ngay sau đó, Lucien Conein nhắc cho họ biết rằng anh em ông Diệm là người công giáo, vì vậy lời giải thích "anh em ông Diệm tự sát" sẽ chẳng được ai tin và chỉ càng gieo thêm nghi ngờ. Các tướng lãnh bèn đổi giọng và tuyên bố với báo chí rằng "đó là một cuộc tự sát vì rủi ro". Luận điện này đã trở thành lập trường chính thức của hội đồng quân nhân cách mạng và của chính quyền cách mạng.

Hiển nhiên, các tướng đảo chánh đã nói dối. Nhưng vấn đề đặt ra: tại sao họ phải nói dối? Tại sao họ phải cúi mặt không dám nhìn sự thật và phải che dấu sự thật?

Tướng Dương văn Minh là kẻ đã ra lệnh cho đàn em giết ông Diệm để trừ hậu họa. Nhưng sau khi ông Diệm chết, tướng Minh không dám nhìn nhận sự thật. Tướng Minh không phải là kẻ chiến bại, mà là kẻ chiến thắng ông Diệm, đồng thời là chủ tịch hội đồng quân nhân cách mạng và người hùng của cách mạng. Tại sao tướng Minh lại phải nói dối? Tại sao lại phải hèn hạ?

Chưa hết. Tướng Dương văn Minh chẳng những không dám nhìn nhận hành động của mình, mà còn tìm cách chối tội và đổ lỗi cho người khác.

Trong cuốn Les Guerres du Vietnam và Our Endless Wars, trung tướng Trần văn Đôn đã viết như sau: "Big Minh không bao giờ nhận trách nhiệm về vụ cố sát anh em ông Diệm. Mỗi khi vấn đề được nêu ra, ông ta lại tìm cách lôi kéo tôi vàọ Trong thời gian bị lưu đày tại Vọng Các, big Minh đã thanh minh với một linh mục công giáo rằng ông không có trách nhiệm gì về vụ giết ông Diệm, big Minh còn khuyên linh mục, nếu muốn biết rõ câu chuyện, thì nên đến hỏi tôi" (Our Endless Wars, trang 113).

Tướng Dương văn Minh, lãnh tụ cuôc vùng dậy của nhân dân VN và của cái gọi là đại bộ phận dân tộc VN, đã phạm hai cái hèn.

Ông Diệm đã ra đầu hàng, đã được các tướng lãnh chấp nhận cho đầu hàng, và đã được các tướng lãnh cử người đưa xe đến chở về đại bản doanh của cuôc đảo chánh. Nhưng tướng Minh đã lén lút cho bộ hạ giết anh em ông Diệm trên xe thiết giáp. Đó là cái hèn thứ nhất...

Sau khi đã cho người ám sát ông Diệm, tướng Minh đã không dám nhìn nhận hành động của mình. Đó la cái hèn thứ hai.

Cái hèn của tướng Minh cũng là cái hèn của nhóm tướng lãnh ngày 1/11/63, những kẻ không có chánh nghĩa hoặc biết rằng mình không có chánh nghĩa, hoặc nghi ngờ về chánh nghĩa của mình. Bởi vì: nếu họ có chánh nghĩa, nếu qủa thật họ đã vì dân vì nước tự động đứng lên để diệt trừ một đai họa cho dân tộc, nếu qủa thât họ đã quân đội và cái "đại bộ phận của dân tộc" đã vùng lên lật đổ một bạo quyền để cứu lấy tổ quốc VN, thì việc giết ông Diệm phải được coi là một hành vi chánh đáng hợp tình hợp lý hợp lòng dân và hợp lịch sử. Và những kẻ đã ra tay giết ông Diệm có quyền tự hào về hành vi đó.

Còn gì chánh đáng hơn là thay mặt nhân dân diệt trừ một tên phản quốc, và diệt trừ mọi mầm mống phản loạn sau này? Diệt trừ bằng thủ đoạn giết lén tuy không đường đường chính chính như diệt trừ bằng một bản án tử hình của tòa án, nhưng xét cho kỹ, cũng không có gì đáng hổ thẹn. Cách mạng nào mà không đổ máu? Cách mạng nào mà không giết? Mà giết thì đã sao? Nhất là giết một tên "đại gian đại ác, tội đồ của dân tộc".

Thế thì tại sao lại phải nói dối, tại sao phải chối tội và tìm cách đổ tội cho người khác?

Câu trả lời là: những kẻ đó không có chánh nghĩa. Vì vậy phải hèn hạ, phải giết lén, phải nói dối, phải chối tội và đổ tội lẫn cho nhau.

KHÍ PHÁCH TƯỚNG LÃNH

Tại sao các tướng lãnh không có được cái khí phách tối thiểu và tinh thần liên đới trách nhiệm để tuyên bố rằng: ông Diệm có tội với dân tộc, cách mạng đã giết ông để trừ hậu họa. Nếu không được cái khí phách tối thiểu đó, thì ít nhất cũng phải có được cái liêm sĩ tối thiểu để nói sự thật với quốc dân. Nói rằng: ông Diệm đã bị giết ngoài ý muốn và ngoài dự liệu của các tướng đảo chánh.

Tại sao lại lừa bịp quốc dân và sống sượng nói dối rằng người chết đã tự sát?

Là vì: họ không có chánh nghĩa, không kết hợp và hành động vì chánh nghĩa, vì vậy đã phải nói dối, nói quanh, chối tội và đổ tội lẫn cho nhau. Thật là mỉa mai: người sống sợ người chết, và kẻ thắng trận sợ kẻ bại trận. Đúng là một lũ đầy tớ giết chủ như trung tướng Nguyễn chánh Thi đã nhận định một cách sâu sắc. Và giết chủ rồi, lũ đầy tớ nhìn nhau, lo sợ.

Vẫn chưa hết. Trong cuốn Our Endless War và Les Guerres du Vietnam, tướng Trần văn Đôn còn viết rằng: "trưa mùng 2/11, xác hai anh em ông Diệm được di chuyển về bệnh viện Saint Paul . Sáng hôm sau, ông Minh và tôi đến viếng thăm ông bà Trần Trung Dung tại nhà.

Bà Dung là cháu ruột ông Diệm. Ông Minh nói với bà Dung: chúng tôi đến đây không phải chia buồn. Chúng tôi hy vọng bà hiểu cho rằng cái chết của ông Diệm và ông Nhu đã xảy ra như là một sự ngẫu nhiên đáng tiếc lúc cuộc đảo chánh đang tiến hành. Chúng tôi rất buồn, nhưng bây giờ sự viêc đã xảy ra, chúng tôi không thể làm gì được nữạ Chúng tôi mong bà thu xếp lo viêc chôn cất" (Our Endless War, trang 111).

Một lân nữa, tướng Dương văn Minh lại nói dối, lại chối tội. Lúc này ông không còn là trung tướng Dương văn Minh nữa, mà là đại tướng Dương văn Minh, chủ tịch hội đồng quân nhân cách mạng, quốc trưởng của nước VN, và "người hùng" của dân tộc. Ông không chối tội trước quốc dân, trước báo chí, hoặc trước đám đông, mà chối tội trước người cháu gái cua ông Diệm.

Tướng Minh nói rằng cái chết của anh em ông Diệm đã xảy ra như một sự tình cờ ngẫu nhiên. Sự dối trá thật là trắng trợn. Cái chết của anh em ông Diệm đã không xảy ra như một sự tình cờ, mà đã xảy ra theo kế hoạch của tướng Minh và với mệnh lệnh của tướng Minh.

Tướng Minh còn nói răng "cái chết ấy đã xảy ra trong lúc cuộc đảo chánh đang tiến hành". Tướng Minh lại nói dối. Anh em ông Diệm đã bị giết trên chiếc xe thiết giáp do chính các tướng lãnh đảo chánh gửi đến để đón ông về bộ tổng tham mưu. Lúc đó, cuộc đảo chánh đã chấm dứt. Chấm dứt từ lâụ Lúc đó các tưởng đảo chánh đã bắt đầu ăn mừng "cách mạng thành công" và bắt đầu chia tiền.

THẰNG HÈN VÀ THẰNG NÓI LÁO

Năm 1971 là năm bầu cử tổng thống nhiệm kỳ hai. Đại tướng Dương văn Minh nạp đơn ứng cử. Vấn đề giết ông Diệm lại được đặt ra. Một quyển sách mang tên "Làm Thế Nào Để Giết Một Tổng Thống" xuất hiện. Báo chí lai khơi đống tro của lịch sử, và những người trong cuộc đã có dịp lên tiếng về cái chết của ông Diệm.

Ứng cử viên tổng thống Dương văn Minh, trong nhiều cuộc phỏng vấn, tuyên bố rằng ông Thiệu phải chịu trách nhiệm về cái chết của anh em ông Diệm trong cuộc đảo chánh 1963. Ứng cử viên Dương văn Minh nói: "Thiệu, lúc đó một đại tá tham gia cuộc đảo chánh, đã không đem quân vào dinh tổng thống đúng thời điểm để ngăn chặn Ngô Đình Diệm trốn thoát".

Theo ông Minh, nếu anh em ông Diệm bị bắt giữ ngay trong dinh Gia Long, họ đã không bị giết. (Tài liệu ngày 20/7/71 về VN tại thư viện quốc hội Mỹ ghi như sau: "Minh said Thieu, then a colonel who had participated in the coup, had failed to bring his troops to the presidential palace in time to prevent Diem trom escaping. Minh held that if Diem and his brother had been taken into custody at the palace they would not have been murdered”).

Ứng cử viên đương kim tổng thống Nguyễn văn Thiệu, khi thấy tướng Minh liên can mình vào vụ ám sát ông Diệm, đã chửi tướng Minh là thằng hèn và thằng nói láo.

Ông Thiệu nói: lúc đó ông được tướng Trần thiện Khiêm, bây giờ là thủ tướng cho biết Dương văn Minh đã nói với ông ta (tức Trần thiện Khiêm) rằng: đảo chánh phiền phức và khó khăn quá, chi bằng áp dụng phương thức dễ nhất, là ám sát Diệm. (tài liệu ngày 20/7/71 ghi như sau: Thieu called Minh a coward and a liar when linking him to the Diem assassination. .. Thieu said at the time he had been informed by gen. Tran thien Khiem, now premier, that Minh had told him the coup was so complicated and difficult that the easiest way is to assassinate Diem).

Hồ sơ lưu trữ tại thư viện quốc hội Hoa Kỳ ngày 20 và 21/7/71 có ghi rõ những lời nói trên của đại tứơng Dương văn Minh, kèm theo lời của đương kim tổng thống VN Nguyễn văn Thiệu gọi cựu quốc trưởng VN Dương văn Minh, chủ tịch hội đồng quân nhân cách mạng, là "thằng hèn và thằng nói láo".

Tướng Nguyễn văn Thiệu chửi tướng Dương văn Minh là thằng hèn và thằng nói láo. Lời chửi sâu sắc và xác đáng này cũng có thể dùng để nói về toàn thể hội đồng quân nhân cách mạng 1963, trong đó có tướng Thiệu, trong vụ ám sát ông Diệm va giải thích cái chết của ông Diệm.

Quả thật ông Diệm đã được phục thù trước lịch sử. Bởi chính cái gian dối hèn hạ của những kẻ đã lật đổ và giết ông. Kẻ thắng trận phải run phải sợ cúi mặt trước kẻ bại trận. Và đổ tội lẫn cho nhau, nguyền rủa lẫn nhau.

Ông Diệm đã được phục thù trước lịch sử. Chính cái gian dối hèn hạ của những kẻ giết ông đã phơi bày thực chất của nhóm người làm đảo chánh và phơi bày cái ý nghĩa đích thực của biến cố 1963. Một nhóm người không có chính nghĩa. Một cuộc tạo phản do ngoại bang chủ xướng và để phục vụ mưu đồ của ngoại bang. Một "lũ đầy tớ giết chủ" như lời nhận định của tướng Nguyễn Chánh Thi Một vụ "giết mướn, như lời phê phán của nhà văn quân đội Nguyễn Đạt Thịnh.

BA TRIỆU ĐỒNG (VN) CỦA CIA

Như đã trình bày ở chương 6 về cuộc đảo chánh, ngày 30/10/1963 tức là hai ngày trước khi cuộc đảo chánh bùng nổ, đại sứ Lodge đã gửi về tòa Bạch Ốc một công điện gồm 13 điểm. Điểm 11, đại sứ Lodge đề cập đến lời yêu cầu của các tướng đảo chánh muốn có một số tiền để "mua chuộc phe chống đối".

Theo các tài liệu còn lưu trữ tại thư viện quốc hội Mỹ, thì hôm đảo chánh Lucien Conein đã đến bộ ổng tham mưu trao một gói bạc ba triệu bạc VN ($3,000,000 đồng) cho tướng Trần văn Đôn, gọi là để "mua chuộc phe chống đối nếu cần".

Trong quyển VNMLQHT, ông Đỗ Mậu cũng viết: "Conein bèn mặc quân phục mang theo một khẩu 375 Magnum và một gói tiền độ 3 triệu đồng bạc rồi đến bộ tổng tham mưu". Nhưng ông ĐM không biết rõ mục đích và số phận của số tiền đó. Vì vậy, ông viết tiếp: "cũng cần nói rõ rằng số tiền ba triệu đồng VN do Conein mang đến đã không được một tướng lãnh nào hay biết trừ tướng Đôn. Tướng Đôn không bao giờ trình bày cho hội đồng tướng lãnh biết có nhận số tiền đó của Conein hay không, và nếu có thì đã xử dụng vào việc gì". (trang 816).

Trong quyển Việt Nam Nhân Chứng, tứơng Đôn nhình nhận có đươc Conein trao cho số bạc ba triệu, và ông đã "tặng cho các bạn", chứ không bỏ vào túi. Ông viết: "Đúng 1:30 trưa, ông Conein vào có mang theo một máy truyền tin đặc biệt để liên lạc vơi đại sứ Mỹ và một bao tiền ba triệu bạc VN. Đảo chánh vừa thành công, trong không khí rộn ràng đó, tôi có tặng cho các gạn một số tiền ủy lạo binh sĩ đơn vị mà không đòi làm biên nhận đầy đủ. Đến năm 1971, tôi ra lệnh cho thiếu tá Đặng văn Hoa tìm lục lai các biên nhận về việc ghi số tiền ba triệu bạc của Conein, thì th/tá Đặng văn Hoa làm tờ trình và một số các biên nhận. Tôi xin đính kèm theo đây để chứng minh. Tôi không tổ chức đảo chánh để kiếm số bạc như vậỵ Vì lúc đó mấy triệu bạc VN đối với tôi không phải là số tiền mà tôi khao khát" (VN Nhân Chứng, TVD, trang 211).

Viết như vậy, tướng Đôn đã muốn thanh minh cho sự trong sạch của ông. Nhưng ông đã làm một công việc thừa thãị Bởi lẽ: không ai kết tội tướng Đôn nhận tiền của Mỹ để bỏ vào túi riêng. Người ta kết tội các tướng đảo chánh đã làm như nhuốc cuộc đảo chánh, và làm nhơ nhuốc Quân Lực VNCH. Người ta kết tội các tướng lãnh đã xử sự như những tay sai của Mỹ, trong vụ lật đổ ông Diệm năm 1963.

Chúng ta hãy đọc kỹ phiếu đệ trình của th/tá Hoa, được tướng Đôn công bố và đính kèm trong phần phụ lục của quyển VN Nhân Chứng của ông, để có một ý niệm.

Phiếu đệ trình, ngày 14 tháng 8 năm 1971

Trích yếu: Về số bạc ba triệu đồng của ông Conein cho mượn để thù lao các đơn vị trong ngày Cách mạng 1/11/63.

Kính thưa trung tướng,

Số bạc 3 triệu đồng của ông Conein cho mượn thì đã được trung tướng chỉ thị cấp cho những người sau đây:

Ngày 1/11/63, T/T/TMT Trần thiện Khiêm nhận ............ .......... 500, 000$
(do đại tá Đặng văn Quang làm biên nhận)

Ngày 1/11/63, T/T Tôn Thất Đính tư lệnh quân đoàn 3 nhận .....500,000$
(do đại úy Phạm viết Hùng nhận)

Ngày 10/11/63, TT Tôn thất Đính có nhận thêm ........... .......... 100,000$

Ngày 4/11/63, tặng sư đoàn 5 ............ ......... ......... .......... ..... 50,000$
(do đại tá Nguyễn văn Thiệu nhận)

Ngày 5/11/63, tặng liên đoàn thủy quân lục chiến của đại tá Lê nguyên Khang... 100,00$ (do đại úy Quế nhận)

Ngày 5/11/63, đại tá Trần ngọc Huyến thị trưởng Đàlạt nhận.....100,000$

Ngày 9/11/63, thiếu tá Phan hòa Hiệp trường thiết giáp nhận ...100,000$

Ngày 19/11/63, đại úy Đào ngọc Diệp câu lạc bộ tổng tham mưu nhận... 100,000$

Tổng cộng.......... ......... ......... ......... ......... ......... .......... .....1,550,000$

Tất cả số tiền 1,550,000 $ trên đây đều có biên nhận (đính kèm). Như vậy còn lại 1,450,000 $, trung tướng cũng tặng cho anh em nhưng không có chữ ký biên nhận. Nếu tôi nhớ không lầm thì trung tướng đã tặng cho các ông sau đây:

Trung tướng Dương văn Minh
Trung tướng Lê văn Kin
Trung tướng Tôn thất Đính
Thiếu tướng Nguyễn hữu Có
Thiếu tướng Trần ngọc Tám
Trung tướng Nguyễn Khánh
Trung tướng Nguyễn cao Trí

Ngày 14 tháng 8 năm 1971
Ký tên
Hoa

Đọc phiếu trình trên đây, người ta thấy rõ số tiền ba triệu đã được tuớng Đôn chia ra làm haị Một nửa "tặng" cho các đơn vị đảo chánh gọi là tiền ủy lạọ Một nữa "tặng" cho các bạn!

Trong những người nhận tiền "ủy lạo", tướng Trần thiện Khiêm, tham mưu trưởng QLVNCH, nhận 500,000$. Tướng Tôn thất Đính, tư lệnh quân đoàn 3 kiêm tổng trấn Saigon-Gia Định, nhận 600,000$. Số còn lại chia cho sư đoàn 5, liên đoàn thủy quân lục chiến, trường thiết giáp, câu lạc bộ tổng tham mưu và đại tá thị trưởng Dalat, Trần ngoc Huyến.

Trong những người được "tặng" tiền, có các tướng Dương văn Minh, Lê văn Kim, Tôn Thất Đính, Nguyễn hữu Có, Trần văn Tám, Nguyễn Khánh, Đỗ cao Trí (riêng tướng Dương văn Minh còn được hưởng số bạc 6 ngàn Mỹ kim lấy được trong chiếc cặp của TT Diệm).

Nói tóm lại: tất cả tướng tá có quân hoặc có công tham dự


và cuộc đảo chánh, đều được "ủy lạo" hoặc "tặng tiền". Nói cách khác: cuộc đảo chánh năm 1963 đã được ủy lạo và tưởng thưởng (tặng).

Và đây là điều quan trọng: cuộc đảo chánh năm 1963 đã được ủy lạo và tưởng thưởng bằng tiền của CIA, do đích thân CIA đưa đến.

Vấn dề đặt ra: các tướng đảo chánh đã xin tiền, hay chính người Mỹ đã tự động đem đến?

Theo như công điện ngày 30/10/63 của của đ/s Lodge gửi cho cố vấn an ninh tòa Bạch Ốc thì các tướng đảo chánh đã "yêu cầu" được có một số tiền để dùng vào việc mua chuộc phe chống đối, nếu cần. Điểm 11 của công điện viết như sau: "As to requests from the Generals, they may well have need of funds at the last movnent with which to buy off potential opposition". Tạm hiểu như sau: Theo lời yêu cầu của các tướng lãnh, họ có thể cần một số tiền vào phút chót để mua chuộc (những kẻ) chống đối có thể xuất hiện.

Tức là: các tướng lãnh đảo chánh đã xin tiền. Và xin tiền với danh nghĩa để mua chuộc phe chống đối (các sĩ quan còn trung thành với ông Diệm).

Theo những cuốn hồi ký của tướng Đôn (Our Endless War, Les Guerres du Vietnam, và Nhân Chứng VN), thì cuộc đảo chánh năm 1963 là một "vấn đề hoàn toàn nội bộ của VN". Tướng Đôn đã vô tình hay hữu ý không biết đến nội dung bức công điện của đại sứ Lodge về vấn đề các tướng đảo chánh đã xin tiền. Ông mô tả Lucien Conein như một bà phước tự động đem tiền đến cho các tướng xử du.ng. Trong cả hai trường hợp (các tướng xin tiền, hoặc Conein tự động đem tiền đến), việc cung cấp số bạc ba triệu đã được chính quyền Mỹ sắp đặt và quyết định trước. Rất có thể các tướng đảo chánh đã xin, cũng rất có thể các tướng lãnh đã không xin. Nhưng trong cả hai trường hợp, họ đã ngửa tay ra nhận!

Hành động ngửa tay nhận tiền của các tướng đảo chánh đã làm nhơ nhuốc cuộc đảo chánh. Họ đã làm nhục chính họ, điều đó không quan hê.. Họ đã sỉ nhục Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa ..!!

Phiếu đệ trình phát tiền do tướng Đôn công bố có nhiều điều làm cho người ta phải thắc mắc.

1/ Trích yếu của phiếu trình có ghi: "về số bạc ba triệu bạc của ông Conein cho mượn để thù lao các đơn vị trong ngày cách mạng 1/11/63.

Trước hết, số bạc ba triệu đồng (VN) đã do chính quyền Mỹ cung cấp, chứ không phải tiền ông Conein cho mượn. Điều này không cần phải chứng minh, nó đã đi vào lãnh vực hiểu biết công cộng, cũng như đã được các tài liệu của Mỹ xác nhận. Thâm tâm các tướng Đôn, Minh, Đính, Kim Khiêm cũng biết điều đó. Vậy thì, tại sao trong phiếu trình lại ghi là tiền ông Conein cho mượn? Và nếu là tiền ông Conein cho mượn thì các tướng đảo chánh đã trả lại cho ông Conein chưa? Nếu trả rồi, chắc chắn tướng Đôn sẽ thấy có bổn phận phải xuất trình bằng chứng, cũng như ông đã thấy có bổn phận phải xuất trình bằng chứng về sự chi tiêu số bạc.

Thứ đến, phiếu trình ghi rằng số tiền ấy dùng để thù lao các đơn vị trong ngày cách mạng 1/11/63. Thù lao là trả công. Tại sao lại ghi như vậy? Người ta lại nghĩ rằng tướng Đôn đã không đọc kỷ phiếu trình, trước khi công bố.

Những chi tiết nói trên không nên có trong phiếu trình. Dư luận đã từng cười ra nước mắt, nay một lân nữa lại phải cười ra nước mắt, và thương hại cho cái gọi là cuộc cách mạng 1963.

2/ Phiếu trình của thiếu tá Hoa đề ngày 14/8/1971, tức là gần 8 năm sau cuộc đảo chánh.

Trong quyển VN Nhân Chứng, tướng Đôn cũng đã viết rõ: năm 1963, ông tặng tiền mà không làm biên nhận, đến năm 1971, ông mới ra lệnh cho thiếu tá Hoa tìm lại các biên nhận và lập phiếu trình.

Cau hỏi được đặt ra: lý do nào đã thúc đẩy tướng Đôn năm 1971 phải cho lập phiếu trình về số bạc đã chi tiêu năm 1963?

Như chúng ta đã biết: năm 1971 là năm bầu cử tổng thống nhiệm kỳ 2. Năm đó, tướng Dương văn Minh ra ứng cử: vấn đề ông Diệm và cuộc đảo chánh 1963 lại được đặt ra trước công luận. Và như trên đã trình bày, ngày 20 và 21 tháng 7 năm đó, hai ông Nguyễn văn Thiệu và Dương văn Minh chửi lộn nhau về cái chết của ông Diệm.

Năm 1971 cũng là năm bầu cử Hạ Nghị viện khóa 2. Ngày bỏ phiếu là 30/8/1971. Tướng Trần văn Đôn ra tranh cử dân biểu tại đơn vị Quảng Ngãị Và ông đắc cử. Những sự việc nói trên có thể trả lời cho câu hỏi: lý do nào đã thúc đẩy tướng Đôn năm 1971 phải cho lập phiếu trình về số bạc ba triệu đã chi tiêu năm 1963,

Tôi muốn nói với các tướng đảo chánh và những kẻ vẫn lớn tiếng ca ngợi biến cố 1963 và cuộc vùng dậy của đại bộ phận dân tộc rằng: hãy có can đảm nhìn vào sự thật. Biến cố ngày 1/11/1963 chỉ là một cuộc tạo phản do ngoại bang chủ mưu và nhằm phục vụ quyền lợi của ngoại bang. Cuộc tạo phản ấy đã được thi hành bởi những tay sai bản xứ. Những kẻ này đã ngửa tay nhận tiền của ngoại bang. Và: đảo chánh xong rồi, họ đã chia nhau số tiền ấy, mặc dù chẳng được bao nhiêu.

Thật là nhục ! Nhục cho những tướng lãnh đảo chánh. Nhục cho cuộc đảo chánh. Và nhục lây cho cả Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà. (Việt Nam Chính Sử, Nguyễn Văn Chức, trang 86-95).

Ghi chú: bài này được diễn đàn DanTocViet gởi đến cho TVTS. Được đăng trên báo điện tử TVTS Online hôm nay, ngày 2.11.2009 để nhớ lại ngày ông Ngô Đình Diệm bị giết.

Tác giả: LS Nguyễn Văn Chức
source TiVi Tuan San

LÝ DO CUỘC ĐẢO CHÁNH NGÀY 1-11-1963



Trần Gia Phụng, Nov 02, 2009 Cali Today News - Cuộc đảo chánh lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm ngày 1-11-1963 có thể bắt nguồn từ các lý do chính sau đây: tập trung quyền lực, vấn đề tôn giáo và sự can thiệp của Hoa Kỳ.

1.- TẬP TRUNG QUYỀN LỰC

Sau khi cầm quyền ngày 7-7-1954, chính phủ của thủ tướng Diệm ổn định tình hình, đánh các đảng phái chính trị ở miền Trung, dẹp vụ Bình Xuyên, loại lực lượng võ trang các giáo phái ở miền Nam, tổ chức Trưng cầu dân ý ngày 23-10-1955, truất phế Bảo Đại, tự tuyên bố thành lập nền Cộng Hòa và tự tuyên bố trở thành tổng thống đầu tiên của Việt Nam Cộng Hòa.(1)

Tuy nền Cộng hòa được phân nhiệm rõ ràng, chính phủ trung ương gồm nhiều bộ trưởng điều hành việc nước, đồng thời tản quyền cho các tòa đại biểu tại các vùng (Trung nguyên Trung phần, Cao nguyên Trung phần, Miền Đông Nam phần, Miền Tây Nam phần), nhưng ngoài tổng thống Diệm, quyền hành nằm trong tay một số người là các ông bà Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn, và một số ít người thân tín. Tổng giám mục Ngô Đình Thục không chính thức giữ một chức vụ hành chánh hay chính trị nào, nhưng ảnh hưởng rất lớn đến tổng thống Diệm, đến các bộ trưởng trong chính phủ và các viên chức địa phương. Lúc đó, dư luận cho rằng tổng thống Diệm chủ trương độc tài và gia đình trị.

Vì vậy, chính phủ Diệm càng ngày càng bị phản đối, nổi bật nhất là các vụ: 1) Ngày 26-4-1960, 18 chính khách tên tuổi trong Uỷ Ban Tiến Bộ Và Tự Do họp tại khách sạn Caravelle ở Sài Gòn, ra kháng thư công khai phản đối chế độ Ngô Đình Diệm độc tài. 2) Ngày 11-11-1960 của nhóm Nguyễn Chánh Thi, Vương Văn Đông đảo chánh hụt. 3) Ngày 27-2-1962, hai phi công Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc ném bom dinh Độc Lập.

Về phía chính phủ, tổng thống Diệm càng ngày càng tập trung quyền lực, chỉ tin dùng những người trong gia đình và trong đảng Cần Lao, không mở rộng thành phần chính phủ. Chính phủ càng ngày càng trở nên cứng rắn với những thành phần không đồng chính kiến. Ngày 5-7-1963, Tòa án Quân sự đặc biệt nhóm họp tại Sài Gòn, bắt đầu xét xử 19 quân nhân và 34 nhân sĩ liên can đến cuộc đảo chánh ngày 11-11-1960. Kết quả, ngày 11-7-1963, tòa tuyên 20 án cấm cố và 14 trường hợp tha bổng. Hôm sau, ngày 12-7-1963 tòa xử các quân nhân và nhân sĩ vắng mặt. Trong số những người được tha bổng, có nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam.

Tuy không bị bắt giam và chỉ bị gọi ra tòa xét xử, Nguyễn Tường Tam uống thuốc độc tự tử ngày 7-7-1963. Trước khi quyên sinh, Nhất Linh đã để lại những dòng tuyệt mệnh như sau: “Đời tôi để lịch sử xử, tôi không chịu để ai xử cả. Sự bắt bớ và xử tội tất cả các phần tử Đối lập Quốc Gia là một tội nặng sẽ làm cho nước mất về tay Cộng sản. Tôi chống đối sự đó và tự hủy mình cũng như Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu để cảnh cáo những người chà đạp mọi thứ tự do.”(1)

Vụ tự tử của Nguyễn Tường Tam và vụ tự thiêu của thượng tọa Thích Quảng Đức ngày 11-6-1963 (trình bày phía dưới), mở đầu một loạt tự thiêu của các tăng ni khác, là những phản kháng công khai mạnh mẽ nhất đối với chế độ của tổng thống Diệm.

2.- DỤ SỐ 10 VÀ VẤN ĐỀ TÔN GIÁO

Chính sách tôn giáo của chính phủ Diệm dựa trên Dụ số 10 do chính phủ Trần Văn Hữu ban hành ngày 6-8-1950 dưới thời quốc trưởng Bảo Đại. Dụ nầy ấn định quy chế các hiệp hội, gồm có 5 chương, 45 điều. Điều 1 của dụ nầy sắp các tôn giáo, trừ Ky-Tô giáo, vào loại hiệp hội thường (như hội thể thao, hội đua ngựa...); trong khi điều 45 của dụ nầy cho biết sẽ ấn định quy chế đặc biệt cho các hội truyền đạo Ky-Tô và các hội Hoa kiều.(2) Dụ nầy cũng quy định các tôn giáo và hội đoàn chỉ được treo cờ trong khuôn viên nơi thờ phượng, hoặc trụ sở hội đoàn mà thôi.

Dụ nầy rõ ràng không công bằng giữa các tôn giáo. Ngoài đạo Thờ cúng ông bà, người Việt theo các đạo chính: Phật giáo, Nho giáo, Lão giáo, Ky-Tô giáo, Cao Đài giáo và Phật giáo Hòa Hảo (PGHH). Trong các đạo trên đây, tổng số tín đồ Phật giáo, Nho giáo, Lão giáo, Cao Đài giáo và PGHH chiếm tỷ lệ rất lớn trên tổng dân số Việt Nam, có thể lên đến trên 80% dân số, thì bị xếp như các hiệp hội, trong khi Ky-Tô giáo với số lượng tín đồ ít, thì được hứa hẹn một quy chế đặc biệt. Dầu vậy, do sự uyển chuyển của các nhà cầm quyền thời quốc trưởng Bảo Đại, dụ nầy không được thi hành, nên chưa xảy ra cuộc chống đối mạnh mẽ nào.

Cần chú ý là sau dụ số 10 ngày 6-8-1950 cho đến đầu thập niên 60, tình hình tôn giáo Việt Nam thay đổi rất nhiều, nhưng dụ số 10 ngày 6-8-1950 vẫn không được điều chỉnh. Càng ngày hệ thống tổ chức tín đồ các đạo Phật giáo, Cao Đài giáo và PGHH càng có quy củ. Riêng Phật giáo, ngày 6-5-1951, các hội Phật học trên toàn cõi Việt Nam họp tại chùa Từ Đàm (Huế), thành lập Tổng Hội Phật giáo Việt Nam, thông qua bản điều lệ, nội quy, bầu ban quản trị và suy cử hòa thượng Thích Tịnh Khiết làm tổng hội chủ.

Trong thời gian đầu của chế độ VNCH, dụ nầy hầu như không được áp dụng. Ngày 6-5-1963, hai ngày trước lễ Phật đản, đổng lý văn phòng Phủ tổng thống gởi công điện yêu cầu các địa phương không được treo cờ ngoài khuôn viên của chùa,(3) theo đúng tinh thần dụ số 10 ngày 6-8-1950. Công điện nầy chẳng những làm cho giới Phật tử bất bình, mà còn làm cho dân chúng nói chung, dù không phải là tín đồ Phật giáo, cũng không bằng lòng, vì trước đó trong các dịp lễ Ky-Tô giáo, cờ Tòa thánh Vatican (màu vàng và trắng) được treo tự do mà không bị chính phủ cấm đoán.

Trong các đạo trên đây, trên lãnh thổ VNCH, Cao Đài giáo và PGHH phát triển mạnh ở các tỉnh miền Nam, thuộc đồng bằng sông Cửu Long; Phật giáo thịnh hành ở các tỉnh miền bắc VNCH, nhất là Huế, nơi có nhiều chùa được thành lập từ thế kỷ 17 trở đi.

Về phía Ky-Tô giáo, lúc bấy giờ tổng giám mục địa phận Huế là Ngô Đình Thục, anh của tổng thống Diệm. Ngô Đình Thục thụ phong giám mục tại Huế năm 1938, được cử làm giám mục đầu tiên địa phận Vĩnh Long. Năm 1961, Ngô Đình Thục được đổi ra làm tổng giám mục tổng giáo phận Huế. Tính đến năm 1963, ông Thục được thâm niên giám mục 25 năm.

Lúc đó dư luận cho rằng nhân dịp lễ ngân khánh (25 năm) của mình, tổng giám mục Thục vận động để được Tòa thánh La Mã phong chức hồng y.(4) Dư luận nầy còn thêm rằng ông Thục trình với Tòa thánh Vatican rằng số tín đồ trong tổng giáo phận Huế, lúc đó gồm hai tỉnh Thừa Thiên và Quảng Trị, do ông cai quản chiếm 80% dân số khu vực. Tháng 5-1963, Tòa thánh cử một phái đoàn điều tra đến Huế, thì dân chúng Phật tử đang treo cờ mừng Phật đản. Kết luận sơ khởi của phái đoàn là chỉ có 20% dân chúng địa phận Huế theo Ky-Tô giáo chứ không phải 80%.(5) Vào ngày 7-5-1963, sau khi thăm viếng nhà thờ La Vang (Quảng Trị) và trở về Huế, tổng giám mục Thục nhận thấy dọc đường dân chúng treo nhiều cờ Phật giáo để đón mừng Phật đản (8-5-1963). Tổng giám mục Thục cho mời viên đại biểu chính phủ tại Trung nguyên Trung phần là Hồ Đắc Khương đến Tòa tổng giám mục Huế khiển trách là tại sao tòa đại biểu chính phủ lại để tín đồ Phật giáo treo cờ ngoài đường, trái với quy định của chính phủ vì quy định nầy chỉ cho phép treo cờ trong khuôn viên của chùa mà thôi.

Hồ Đắc Khương gởi khẩn điện về Sài Gòn xin ý kiến. Điện văn trả lời của phủ tổng thống “xác nhận rằng nghị định cấm treo cờ tôn giáo hay đảng phái bên ngoài khuôn viên và trụ sở vẫn còn giá trị”. Dựa vào công điện nầy, Hồ Đắc Khương “ra lệnh cho chính quyền địa phương tại miền Trung phải triệt hạ cờ Phật giáo”.(CVL, sđd. tr 229.) Từ đó, bùng nổ cuộc phản đối.

Tối Phật đản 8-5-1963, khi dân chúng tụ tập ở Đài phát thanh Huế để theo dõi buổi tường thuật Lễ Phật đản ngày hôm đó, một tiếng nổ bùng lên, làm thiệt mạng 8 người và bị thương 15 người. Tin tức về vụ nổ được lan truyền nhanh chóng. Người ta không biết đích xác ai gây ra vụ nổ. Chính quyền đổ lỗi cho khủng bố Việt Cộng. Dân chúng đổ lỗi cho chính quyền Huế ném chất nổ để giải tán đồng bào Phật tử.(6) Dù ai gây ra vụ nổ, vụ nổ đã làm cho 8 người thiệt mạng. Tức thì, làn sóng phản đối chính quyền càng ngày càng dâng cao và càng trở nên bạo động.

Trước hết, ngày 9-5-1963, tại Sài Gòn, Ủy Ban Liên Phái bảo Vệ Phật Giáo được thành lập, do thượng thọa Thích Tâm Châu làm chủ tịch, Mai Thọ Truyền làm tổng thư ký, văn phòng đặt tại chùa Xá Lợi, trên đường Bà Huyện Thanh Quan. Ủy ban gồm 11 hội đoàn Phật giáo.

Sau lễ Phật đản, Hồ Đắc Khương, đại biểu chính phủ ở Trung nguyên Trung phần bị thay thế ngày 1-6-1963. Người được bổ nhiệm đến thay là Nguyễn Xuân Khương, nguyên tổng giám đốc Điền địa. Nguyễn Văn Đẳng tỉnh trưởng tỉnh Thừa Thiên, cùng thiếu tá Đặng Sĩ, phó tỉnh trưởng nội an tỉnh Thừa Thiên, bị triệu về đợi lệnh tại bộ Nội vụ ở Sài Gòn. (Đoàn Thêm, sđd. tr.349.) Một quan chức khác cũng bị thay thế là thiếu tướng Lê Văn Nghiêm, tư lệnh quân đoàn I, được thay ngày 16-9-1963 bằng một đại tá mới thăng thiếu tướng là Đỗ Cao Trí. Trong khi đó, Ngày 4-6-1963, tổng thống Diệm thành lập Ủy ban Liên bộ của chính phủ để nghiên cứu những yêu cầu của Phật giáo, do phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ đứng đầu.










Ngày 11-6-1963, tại thủ đô Sài Gòn, thượng tọa Thích Quảng Đức tự thiêu ở ngã tư đường Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt, để phản đối chính phủ. Hình ảnh Thích Quảng Đức tự thiêu trong ngọn lửa bập bùng làm rúng động toàn thể dân chúng Việt Nam và dân chúng thế giới. Sau các cuộc họp giữa Uỷ ban Liên bộ của chính phủ và phái đoàn Uỷ ban Liên phái Phật giáo do thượng tọa Thích Thiện Minh cầm đầu từ 14-6 đến 16-6-1963 , chính phủ Diệm nhượng bộ, đồng ý để Phật tử tự do treo cờ và tạm ngưng áp dụng sắc dụ số 10 ngày 6-8-1950.

Ngày 9 và 29-7-1963, bộ Nội vụ liên tiếp ra hai nghị định công nhận cờ Phật giáo và việc treo cờ Phật giáo. Tuy nhiên, một mặt những cuộc tập họp về phía Phật giáo ở Sài Gòn và ở các địa phương chẳng những bị cản trở, mà một số tín đồ còn bị bắt, một mặt chính phủ tổ chức những hội đoàn thân chính phủ, lên tiếng phản đối Phật giáo. Vì vậy, mâu thuẫn giữa hai bên vẫn chưa được giải quyết. Chắc chắn mâu thuẫn nầy còn bị Việt Cộng lợi dụng nhằm đào sâu hố chia rẽ giữa chính quyền với dân chúng, và giữa các tôn giáo với nhau.

Ngày 1-8-1963, trả lời phỏng vấn của đài CBS (Columbia Broadcasting System, Hoa Kỳ), bà Ngô Đình Nhu tố cáo các lãnh tụ Phật giáo đang mưu toan lật đổ chính phủ và tự thiêu chỉ là việc “nướng thịt sư” (barbecue a bonze).(CĐ, nb I-C, sđd. tr. 312.) Tiếp theo đó, ngày 3-8-1963, khi phát biểu tại lễ mãn khóa huấn luyện bán quân sự của đoàn Thanh Nữ Cộng Hòa, bà Nhu lên án những vụ tranh đấu về tôn giáo. Lời lẽ của bà Nhu được thân phụ bà là Trần Văn Chương, đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ, gọi là “thiếu lễ độ” đối với Phật giáo.(Đoàn Thêm, tr. 357.)

Những ý kiến như trên chẳng những làm cho mối liên lạc giữa chính phủ Diệm với tín đồ Phật giáo càng thêm xấu đi, mà còn làm cho cả những người dân bình thường cũng bất bình với chế độ. Sau ý kiến của bà Nhu, trong tháng 8-1963, liên tiếp xảy ra nhiều cuộc phản đối chính phủ, trong đó quan trọng nhất là các vụ tư thiêu của các tăng ni Phật giáo.

Ngày 4-8-1963, tại Phan Thiết (Bình Thuận), đại đức Thích Nguyên Hương, thế danh là Huỳnh Văn Lễ, tự thiêu trước dinh tỉnh trưởng. Khuya 12-8, tại chùa Xá Lợi ở Sài Gòn, nữ sinh Mai Tuyết An, 18 tuổi cầm dao chặt bàn tay trái để phản đối bà Ngô Đình Nhu; máu ra nhiều nhưng tay không đứt. Ngày 13-8-1963, đại đức Thích Thanh Tuệ, thế danh là Bùi Huy Chương, tự thiêu tại chùa Phước Duyên, Hương Trà, Thừa Thiên. Ngày 15-8-1963, ni sư Thích Nữ Diệu Quang, thế danh là Nguyễn Thị Thu, tự thiêu tại Ninh Hòa (Khánh Hòa). Ngày 16-8-1963, thượng tọa Thích Tiêu Diêu, thế danh Đoàn Mễ, tự thiêu ở chùa Từ Đàm, Huế.

Cũng trong ngày 16-8-1963, tại Huế, theo lệnh của tổng thống Diệm, linh mục Cao Văn Luận, viện trưởng viện Đại học Huế, bị giải nhiệm và giáo sư Trần Hữu Thế được cử lên thay.(CVL, tr. 261-263.) Sự thay đổi nầy khiến cho nhiều khoa trưởng và giáo sư đại học từ chức, và giới sinh viên phẫn nộ mạnh mẽ.

Dầu càng ngày dân chúng càng phản đối và tình hình xã hội càng ngày càng xáo trộn, chính phủ Diệm vẫn không nhượng bộ.(7) Ngày 18-8-1963, mười tướng lãnh cao cấp đề nghị với chính phủ là nên ban hành thiết quân luật, để tái lập trật tự. Dựa vào đề nghị đó, tổng thống Diệm liền quyết định thiết quân luật trên toàn quốc kể từ 0 giờ sáng 21-8-1963. Quyết định nầy do quyền tổng tham mưu trưởng Quân đội VNCH, trung tướng Trần Văn Đôn, ký tên.

Điều quan trọng trong vụ thiết quân luật nầy là khoảng nửa giờ sau khi được ban hành, nghĩa là qua sáng 21-8-1963, chính phủ ra lệnh cho ruồng bố chùa chiền trên toàn quốc, bắt hết các tăng ni lãnh tụ tranh đấu chống chính phủ. Riêng tại Sài Gòn, Lực Lượng Đặc Biệt tấn công chùa Xá Lợi trên đường Bà Huyện Thanh Quan. Các lãnh tụ Phật giáo đều bị bắt, trừ vài người trốn thoát. Thượng tọa Thích Trí Quang cũng bị bắt, nhưng sau đó ông trốn được vào Tòa đại sứ Hoa Kỳ ngày 23-8-1963.(8) Tân đại sứ Henry Cabot Lodge vừa đến Sài Gòn ngày 22-8-1963.

Sau vụ tấn công chùa, tình hình càng thêm rối loạn. Ngày 21-8-1963, Trần Văn Chương đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ bị chính phủ Diệm bãi nhiệm và ngược lại Trần Văn Chương tuyên bố từ chức. Bà Trần Văn Chương tên thật là Thân Thị Nam Trân từ chức quan sát Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc. Chiều ngày 22-8-1963, tại Sài Gòn, Vũ Văn Mẫu từ chức ngoại trưởng.

Lúc đó, bản tin đài Tiếng Nói Hoa Kỳ (VOA = Voice of America) loan báo rằng quân đội đã tấn công chùa, nên trung tướng Trần Văn Đôn cho mời trung tá Lucien Conein, nhân viên CIA, đến gặp. Lúc đó trên danh nghĩa chính thức, Lucien Conein là cố vấn bộ Nội vụ VNCH. Trong cuộc nói chuyện với Conein vào tối 23-8-1963 tại bộ TTM, tướng Đôn cho biết rằng quân đội không tham gia vào việc đánh phá các chùa mà chính là Cảnh sát đặc biệt của chính phủ. Khi Conein hỏi “Các tướng lãnh Việt Nam có ý định đảo chánh không?”, thì tướng Đôn dè dặt trả lời “sẽ nói chuyện sau”.(9) Từ đó, Conein thường liên lạc và dò hỏi các tướng lãnh Việt Nam.

Ngày 24-8-1963, tổng thống Diệm cử Trương Công Cừu làm bộ trưởng Ngoại giao thay Vũ Văn Mẫu và cũng trong ngày nầy, chính phủ ra lệnh đóng cửa các trường học ở Sài Gòn, nhưng sinh viên học sinh vẫn tiếp tục phản đối chính phủ. (Các trường học mở cửa lại ngày 4-9-1963.) Ngày 25-8-1963, khoảng 300 sinh viên học sinh biểu tình tại công trường Diên Hồng, trước chợ Bến Thành. Đoàn biểu tình bị đàn áp, một nữ sinh tên là Quách Thị Trang bị bắn chết. Quách Thi Trang, pháp danh Diệu Nghiêm, khoảng 15 tuổi, nữ sinh tư thục Trường Sơn (Sài Gòn).

Cũng trước chợ Bến Thành, ngày 5-10-1963, đại đức Thích Quảng Hương, thế danh Nguyễn Ngọc Kỳ, tự thiêu để phản đối chính sách kỳ thị tôn giáo của chính phủ Diệm, theo như huyết thư mà đại đức để lại. Sau Thích Quảng Hương, đại đức Thích Thiện Mỹ, thế danh Hoàng Miều (1940-1963), tự thiêu trước nhà thờ Đức Bà, Sài Gòn.

Trên thế giới, ngày 9-8-1963, Cambodia, Ceylon (sau đổi thành Sri Lanka), Nepal đưa vấn đề Phật giáo Việt Nam ra trước Liên Hiệp Quốc (LHQ). Đại hội đồng LHQ ngày 8-10-1963 quyết định gởi một phái đoàn điều tra đến Việt Nam. Phái đoàn LHQ đến Sài Gòn ngày 24-10-1963. Hôm sau, phái đoàn đến gặp tổng thống Diệm và tổ chức họp báo. (Đoàn Thêm, sđd. tr. 364) Phái đoàn chưa hoàn tất công việc điều tra, thì chính phủ Diệm sụp đổ ngày 1-11-1963.

3.- VAI TRÒ CỦA NGƯỜI HOA KỲ

Không riêng Hoa Kỳ, tất cả các nước bỏ tiền ra viện trợ, đều muốn công cuộc viện trợ đạt hiệu quả và nhất là muốn dựa trên viện trợ để can thiệp vào công việc nội bộ của nước nhận viện trợ; hướng dẫn hoặc điều khiển đường lối của nước đó theo chủ trương của nước viện trợ. Ngược lại, những nước nhận viện trợ luôn luôn muốn duy trì chủ quyền quốc gia đối với các nước viện trợ, chống lại sự can thiệp của nước chủ viện.

Tình trạng giữa Hoa Kỳ và VNCH cũng vậy. Hoa Kỳ viện trợ cho VNCH để chống cộng, nhưng không phải chống cộng theo đường lối VNCH, mà là chống cộng theo đường lối Hoa Kỳ. Hoa Kỳ là một cường quốc trên thế giới và Hoa Kỳ muốn giữ thăng bằng ngoại giao với tất cả các nước. Người Hoa Kỳ nổi tiếng thực dụng, nên chính phủ Hoa Kỳ cũng phải thực dụng theo quyền lợi của tư bản Hoa Kỳ, mới có thể được tái cử. Từ đó, giữa chính phủ Hoa Kỳ và chính phủ VNCH xảy ra những mâu thuẫn trong cách thức tiến hành viện trợ và chống cộng.

Một điểm cần chú ý là dầu Hoa Kỳ viện trợ cho VNCH, nhưng trong nội bộ chính phủ Hoa Kỳ, không phải ai cũng đều ủng hộ tổng thống Diệm. Những người Mỹ ủng hộ ông Diệm cho rằng chính phủ Diệm chống cộng hữu hiệu, hoặc chưa tìm ra được một người khác có khả năng hơn ông Diệm để thay thế. Những người Mỹ chống ông Diệm cho rằng chính phủ Diệm tham nhũng, đàn áp đối lập, không chống cộng hữu hiệu. Một điều quan trọng hơn cả đối với người Mỹ, nhưng người Mỹ tránh nói công khai, là ông Diệm không dễ dàng tuân theo đường lối của Mỹ, và ông Diệm bảo vệ chủ quyền quốc gia khá cứng rắn, đến độ bảo thủ,.

Sau khi lên cầm quyền vào tháng 1-1961, tổng thống John F. Kennedy gởi phó tổng thống Lyndon Johnson sang Việt Nam ngày 11-5-1961. Trong cuộc hội kiến với phó tổng thống Mỹ, tổng thống Diệm tuyên bố không chấp nhận việc Mỹ gởi quân chiến đấu đến Việt Nam, mà chỉ yêu cầu Mỹ gởi cố vấn sang huấn luyện mà thôi. (Chính Đạo, sđd. I-C, tt. 223-224.) Sau đó, trong một cuộc tiếp kiến đại sứ Frederick Nolting (đại sứ từ 10-5-1961), khi Nolting đề nghị để cho Hoa Kỳ chia sẻ những quyết định về chính trị, quân sự và kinh tế, tổng thống Diệm trả lời rằng “chúng tôi không muốn trở thành một xứ bảo hộ của Hoa Kỳ ”.(10)

Có tài liệu cho rằng từ năm 1961, Hoa Kỳ muốn thành lập căn cứ không quân và hải quân tại Cam Ranh, nhưng tổng thống Diệm không chấp thuận.(11) Quả thật, cho đến năm 1964, sau khi tổng thống Diệm bị sát hại, thì Đệ thất hạm đội của Hoa Kỳ mới đưa được một vài đơn vị vào tiền thám tại đây, và từ 1965 Hoa Kỳ chính thức thành lập căn cứ Hải quân. Lúc đó, căn cứ nầy kiểm soát hoạt động toàn vùng biển Việt Nam và Đông Nam Á.

Tại Hoa Kỳ, khi còn tại chức, tổng thống Dwight Eisenhower chủ trương ủng hộ chính phủ hoàng gia Lào, đánh dẹp Pathet Lào, chận đứng các cuộc nổi dậy của cộng sản. Lên thay Eisenhower, Kennedy thay luôn chính sách về Lào. Kennedy giao cho Averell Harriman, mưu tìm một giải pháp chính trị để giải quyết chiến tranh ở Lào. Harriman là phụ tá ngoại trưởng đặc trách Viễn đông (Assistant Secretary of State for Far Eastern Affairs) từ tháng 1 đến tháng 11-1961, và trở thành thứ trưởng Ngoại giao đặc trách về chính trị (Under Secretary of State for Political Affairs). Harriman vận động triệu tập hội nghị quốc tế tại Genève nhằm trung lập hóa nước Lào.(12) Hội nghị bắt đầu từ 16-5-1961 đến 23-7-1962, đưa đến hiệp định công nhận Lào là một nước độc lập và trung lập, do hoàng thân Souvanna Phouma làm thủ tướng.

Hiệp định trung lập nước Lào bị chính phủ Diệm phản đối, vì chính phủ Diệm lo ngại rằng Lào sẽ không đủ khả năng tự bảo vệ biên giới chống lại sự xâm nhập của cộng sản Việt Nam, tạo cơ hội cho quân Bắc Việt vào đất Lào, để rồi theo đường Trường Sơn, xuống quấy phá Nam Việt. Lúc đầu, tổng thống Diệm không chịu ký vào bản hiệp định trung lập hóa nước Lào. Điều nầy làm cho Harriman tức giận và căm ghét tổng thống Diệm. Tổng thống Kennedy liền gởi thư cho tổng thống Diệm, bảo đảm rằng Hoa Kỳ sẽ không trung lập hóa Nam Việt, và Hoa Kỳ sẽ tiếp tục viện trợ cho Nam Việt, để chống cộng sản. Do áp lực từ phía Hoa Kỳ, tổng thống Diệm đành nhượng bộ, chấp nhận cho ngoại trưởng VNCH ký vào hiệp định nầy. (Mark Moyar, tt. 163-164.)

Bên cạnh đó, từ giữa năm 1962, chính phủ Hoa Kỳ khá bận tâm về các nguồn tin cho rằng chính phủ Diệm đang ngầm liên lạc với nhà nước cộng sản Hà Nội. Sự việc nầy bắt đầu vào mùa hè năm 1962, khi cố vấn Ngô Đình Nhu cầm đầu phái đoàn Việt Nam qua Maroc (Morocco), thăm xã giao nước nầy. Tại đây, ông Nhu gặp Antoine Pinay, lúc đó làm bộ trưởng Phủ tổng thống Pháp. Pinay đề nghị một cuộc gặp gỡ cấp cao giữa Hà Nội và Sài Gòn để bàn chuyện hiệp thương Nam Bắc. Về lại Việt Nam, Ngô Đình Nhu mượn cớ đi săn cọp, đã bí mật gặp tại Bình Tuy một nhân vật cao cấp của cộng sản là Phạm Hùng, ủy viên Bộ chính trị đảng Lao Đông.(13)

Từ tháng 8-1962, Joseph A. Mendenhall, cố vấn chính trị Tòa đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn, đã đề nghị loại bỏ tổng thống Diệm, vợ chồng Ngô Đình Nhu và những người trong gia đình ông Diệm, bằng một số nhân vật khác, vì các ông Diệm Nhu không chịu thay đổi lề lối làm việc dù bị Hoa Kỳ áp lực. (Chính Đạo, nb. I-C, sđd. tt. 256-257.) Lề lối làm việc ở đây có nghĩa là chủ trương chính sách của tổng thống VNCH. Như thế, có nghĩa là người Hoa Kỳ có ý định loại bỏ tổng thống Diệm trước khi xảy ra biến cố Phật giáo vào tháng 5-1963.

Vào dịp Tết quý mão (25-1-1963), chủ tịch Bắc Việt là Hồ Chí Minh gởi một cành đào tặng tổng thống Nam Việt là Ngô Đình Diệm. Cành đào nầy được trưng bày trong Phòng khánh tiết Dinh Độc Lập và trên cành đào có danh thiếp chúc Tết của Hồ Chí Minh.(14)

Sau khi được đề cử làm ngoại trưởng ngày 24-8-1963, Trương Công Cừu mở cuộc tiếp tân đầu tiên ngày 25-8-1963 nhằm ra mắt ngoại giao đoàn tại Sài Gòn, đồng thời đón tiếp tân đại sứ Hoa Kỳ Henry Cabot Lodge. Trong buổi tiếp tân nầy, cố vấn Ngô Đình Nhu lần thứ nhất gặp Mieczylslaw Maneli, trưởng đoàn Ba Lan (Poland) trong Ủy ban Quốc tế Kiểm soát Đình chiến. Ngô Đình Nhu còn gặp Maneli lần thứ hai tại dinh Gia Long ngày 2-9-1963 bàn việc liên lạc với Hà Nội. (Chính Đạo, sđd. tr. 325 và tr. 339.)

Chắc chắn tình báo Mỹ không bỏ sót chuyện Ngô Đình Nhu liên lạc với cộng sản và chuyện cành đào Hà Nội ở Dinh Độc Lập trong dịp Tết năm 1963. Để nắm vững tình hình, cuối tháng 9-1963, tổng thống Kennedy gởi bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara cùng tướng Maxwell Taylor qua Sài Gòn. Ngày 29-9-1963, hai ông gặp tổng thống Diệm. McNamara nói thẳng với tổng thống Diệm rằng việc đàn áp Phật tử gây trở ngại cho nỗ lực chống cộng và phàn nàn về những tuyên bố của bà Ngô Đình Nhu. Tổng thống Diệm tránh các vấn đề do McNamara đưa ra.

Trong khi đó, báo chí Hoa Kỳ liên tục chỉ trích chính phủ Diệm, nhất là từ sau biến cố Phật giáo ở Huế (tháng 5-1963) và sau vụ chính phủ Diệm ra lệnh tấn công các chùa (tháng 8-1963). Dư luận Hoa Kỳ cho rằng tổng thống Diệm chủ trương độc tài gia đình trị, càng ngày càng mất lòng dân, càng ngày càng kém hữu hiệu trong việc điều hành đất nước và chống lại du kích cộng sản.(Chính Đạo, nb. I-C, sđd. tt. 357-361.)

Năm 1963 là năm trước của năm bầu cử tổng thống Hoa Kỳ (1964). Dư luận báo chí Hoa Kỳ năm 1963 rất quan trọng, có thể ảnh hưởng đến kết quả bầu cử trong năm sau (1964). Tổng thống Kennedy lo ngại tình hình Việt Nam ảnh hưởng xấu đến cuộc tái tranh cử của ông vào năm 1964.

Vì tất cả những lý do trên, chính phủ Kennedy muốn tìm một giải pháp mới, nhằm thay đổi tình hình tại ViệtNam theo chiều hướng có lợi cho Hoa Kỳ, và có lợi cho sự tái tranh cử của Kennedy.

4.- MẬT ĐIỆN SỐ 243 NGÀY THỨ BẢY 24-8-1963

Theo Trần Văn Đôn, nhóm đảo chánh của các ông không cho người Mỹ biết về dự tính đảo chánh. (TVĐ, sđd. tr. 209.) Tuy nhiên, người Mỹ chẳng những biết việc nầy, mà còn yểm trợ việc nầy, vì cũng Trần Văn Đôn kể rằng nhóm các ông kết nạp được Trần Thiện Khiêm vào tổ chức đảo chánh là nhờ người Mỹ. (TVĐ, sđd. tr. 193.) Như thế nghĩa là người Hoa Kỳ giữ một vai trò quan trọng trong việc đứng làm trung gian liên kết nhân sự cho nhóm dự tính đảo chánh.

Thật ra, như đã trình bày ở trên, người Hoa Kỳ đã nghĩ đến việc thay đổi nhà lãnh đạo VNCH từ hơn một năm trước qua đề nghị của Joseph Mendenhall, cố vấn chính trị Tòa đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn, trong phiếu trình đề ngày 16-8-1962.

Sau biến cố Phật giáo ngày 8-5-1963 ở Huế, người đứng đầu Nhóm nghiên cứu Việt Nam thuộc Tòa đại sứ Hoa Kỳ, Ben Wood, soạn một kế hoạch khẩn cấp ngày 23-5-1963 về các cách thay đổi chính phủ Diệm. Sau khi Thích Quảng Đức tự thiêu tại ngày 11-6-1963, bộ Ngoại giao Hoa Kỳ chỉ thị ngày 14-6-1963 cho Tòa đại sứ Sài Gòn xúc tiến kế hoạch thay tổng thống Diệm.

Ngày 27- 6-1963, tổng thống Kennedy công bố quyết định thay đổi đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam. Thay đổi đại sứ trong lúc tình hình căng thẳng là dấu hiệu thay đổi chính sách, nhưng để yên lòng chính phủ Việt Nam, bộ Ngoại giao Hoa Kỳ yêu cầu tòa đại sứ tại Sài Gòn cho tổng thống Diệm biết rằng chính sách của Hoa Kỳ không thay đổi, tiếp tục ủng hộ chính phủ Việt Nam chống cộng sản. (Chính Đạo, nb. I-C, sđd. tr. 302.) Tiếp tục ủng hộ công cuộc chống cộng của Việt Nam, không có nghĩa là ủng hộ cá nhân người điều hành chính phủ.

Ngày 22-8-1963, tân đại sứ Henry Cabot Lodge đến Sài Gòn và trình uỷ nhiệm thư ngày 26-8-1963. Trước đó hai ngày, 24-8-1963, Lodge gởi về Washington DC một điện văn báo cáo rằng ông Nhu là người ra lệnh tấn công chùa và nói về dự tính đảo chánh của một số tướng lãnh.

Ngày 24-8-1963 là thứ Bảy, tổng thống Kennedy, bộ trưởng Ngoại giao Dean Rusk, bộ trưởng Quốc phòng MacNamara, giám đốc CIA McCone đều đi nghỉ cuối tuần. Thứ trưởng Ngoại giao George Ball, xử lý thường vụ ngoại trưởng, cùng Harriman (thứ trưởng Ngoại giao), Hilsman (phụ tá ngoại trưởng), Forrestal (phụ tá tổng thống) đồng soạn và ký tên mật điện 243 gởi cho Tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn cùng trong ngày 24-8-1963, rồi chuyển cho tổng thống Kennedy và ngoại trưởng Rusk. Hai ông nầy đồng ý cho gởi đi. Nội dung đoạn cuối điện văn rất quan trọng, được dịch như sau:

“Chính phủ Hoa kỳ không thể dung dưỡng tình trạng mà quyền hành lại nằm trong tay ông Nhu. Ông Diệm phải loại bỏ ông Nhu và các thuộc hạ của ông để thay vào đó bằng quân đội tinh nhuệ và các chính trị gia có tư cách.

“ Nếu ông [tức đại sứ Lodge] cố gắng hết sức, nhưng ông Diệm vẫn ngoan cố và từ chối thì chúng ta phải đối đầu với một điều có thể xảy ra, là ngay cả bản thân ông Diệm cũng không thể tồn tại được.”(15)

Bức mật điện số 243 ngày 24-8-1963 trên đây của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ chỉ thị cho tân đại sứ Cabot Lodge yêu cầu tổng thống Diệm phải loại bỏ cố vấn Nhu. (Đây là điều mà người Mỹ biết ông Diệm không bao giờ chịu làm.) Nếu ông Diệm không chấp thuận, thì loại bỏ luôn ông Diệm. Nói cách khác, bức mật điện nầy ngầm cho phép đại sứ Lodge, nếu cần, có thể tiến hành đảo chánh, lật đổ tổng thống Diệm. Cần chú ý: Averell Harriman, người chủ trương trung lập hóa Lào, bị tổng thống Diệm phản đối, là một trong bốn người soạn bản mật điện 243. Hariman rất căm ghét tổng thống Diệm. Phải chăng đây là dịp Harriman kiếm cách trả thù, vì bản mật điện nầy có thể xem là tờ khai tử chế độ tổng thống Ngô Đình Diệm?

KẾT LUẬN

Trong công cuộc cai trị, về đối nội, chính phủ Diệm chủ trương tập trung quyền lực, bị lên án là độc tài gia đình trị. Chính phủ Diệm lại áp dụng một cách cứng rắn luật số 10 năm 1950 từ thời chính phủ Trần Văn Hữu, không công bằng giữa các tôn giáo. Trong di chúc để lại cho con là vua Minh Mạng năm 1819, vua Gia Long đã dặn: “Không được ngược đãi tôn giáo, vì đó là nguyên nhân gây rối loạn và đôi khi làm mất nước.”(16)

Dầu chế độ Ngô ĐìnhDiệm chưa đến mức ngược đãi tôn giáo, nhưng việc thi hành một cách cứng rắn dụ số 10 đã làm bùng lên cuộc đấu tranh của giới Phật giáo, là thành phần chiếm đại đa số dân chúng Việt Nam. Lúc đó, chắc chắn có nhiều thành phần từ nhiều phía lợi dụng cuộc phản đối của Phật giáo để phá rối chính phủ Diệm và phá rối VNCH. Trong khi đó, dù tổng thống Diệm và chính phủ tỏ thiện chí để giải quyết khủng hoảng, thì vẫn có một số người trong chính quyền thiếu sáng suốt, gây thêm nhiều chia rẽ giữa chính phủ và dân chúng, như những lời tuyên bố của bà Ngô Đình Nhu. Cứ thế mâu thuẫn giữa hai bên càng ngày càng gay gắt thêm.

Về đối ngoại, chính phủ Diệm chủ trương độc lập với người Mỹ, trong khi người Mỹ muốn kiểm soát chính phủ VNCH. Hai ông Diệm và Nhu lại có sáng kiến ngoại giao trực tiếp với Bắc Việt để giải quyết chiến tranh giữa hai miền Nam Bắc với nhau, chẳng những làm cho dư luận Việt hoang mang, mà còn làm cho chính phủ Mỹ nghi ngờ và bất bình, vì người Mỹ bị hai ông đặt ra ngoài cuộc thương thuyết.

Người Mỹ không quan tâm đến quyền lợi của người Việt mà chỉ lo lắng cho quyền lợi của Mỹ. Vấn đề Phật giáo và đối lập chính trị tại Việt Nam chỉ quan trọng đối với người Việt, chứ không quan trọng đối với người Mỹ. Người Mỹ dựa vào những vấn đề nầy, xúi giục và yểm trợ các tướng lãnh đảo chánh lật đổ ông Diệm, vì quyền lợi của Mỹ và vì việc tái tranh cử của Kennedy mà thôi. Sự tiếp tay của Tòa đại sứ Mỹ và của đại sứ Henry Cabot Lodge đã góp phần quyết định trong sự thành công của cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963. (Trích: Việt sử đại cương tập 6.)

TRẦN GIA PHỤNG
(phungtrangia@yahoo.com)
CHÚ THÍCH
1. Hai câu của cuộc trưng cầu dân ý chỉ hỏi truất phế hay không truất phế Bảo Đại và chấp thuận hay không chấp thuận Ngô Đình Diệm làm quốc trưởng để đặt nền móng dân chủ, chứ không nói đến việc thành lập nền Cộng hòa và nhất là không nói đến việc chọn Ngô Đình Diệm làm tổng thống.
2. Nhiều tác giả, Nhất Linh, Người nghệ sĩ - Người chiến sĩ, California: Nxb. Thế Kỷ, 2004, tr. 125.
3. Đoàn Thêm, Hai mươi năm qua: Việc từng ngày (1945-1964), Sài Gòn 1966, Xuân Thu California, tái bản không đề năm, tr. 75.(Viết tắt: Đoàn Thêm, sđd. tr.)
4. Chính Đạo, Việt Nam niên biểu 1939-1975 (Tập I-C: 1955-1963), Nxb. Văn Hoá, Houston, 2000, tr. 278. (Viết tắt: Chính Đạo, I-C, sđd. tr.)
5. Linh mục Cao Văn Luận, Bên giòng lịch sử Việt Nam, 1940-1975, Sacramento: TANTU Research, 1983, tr. 224, tr. 229. Cần chú ý các điểm: Cao Văn Luận là người đồng đạo với Ngô Đình Thục và Ngô Đình Diệm. Lúc đó LM Cao Văn Luận đang làm viện trưởng Viện Đại học Huế. Vì là linh mục và là viện trưởng Viện Đại học, nên LM Cao Văn Luận có điều kiện để tiếp cận các viên chức hành chánh và biết rõ các tin tức về biến cố nầy. (Viết tắt: CVL, sđd. tr.)
6. Chính Đạo, Tôn giáo & chính trị, Phật giáo, 1963-1967, Houston: Nxb. Văn Hóa, 1997, tr. 25.
7. Có 4 dư luận khác nhau: 1) Dư luận thứ nhất cho rằng thiếu tá Đặng Sĩ, phó tỉnh trưởng nội an, ra lệnh cho lực lượng dưới quyền ném chất nổ để giải tán đồng bào và gây thương vong. 2) Dư luật thứ hai cho rằng Việt cộng lợi dụng sự bất bình của dân chúng, cho nổ lựu đạn gây chết người rồi đổ lỗi cho chính quyền, nhằm đẩy cao lòng bất mãn của dân chúng đối với chính quyền. 3) Một ý kiến khác lúc đó cho rằng cả phía chính quyền Việt Nam Cộng Hòa lẫn phía du kích cộng sản cũng đều chưa có loại võ khí gây nổ nầy, nhưng người ta không biết là của ai? 4) Ý kiến cuối cùng cho rằng người Mỹ liên hệ đến vụ nổ nầy. (dư luận cuối cùng nầy, theo Hoàng Ngọc Thành & Thân Thị Nhân Đức, Những ngày cuối cùng của tổng thống Diệm, San Jose: Nxb. Quang Vinh & Kim Loan & Quang Hiếu, in lần thứ hai, 2003, tt. 221-222.)
8. Theo lời linh mục Cao Văn Luận, sau khi bị giải nhiệm chức viện trưởng Viện Đại học Huế, linh mục vào Sài Gòn và đến gặp giám mục khâm sứ Tòa thánh La Mã tại Việt Nam. Ông được giám mục khâm sứ Tòa thánh La Mã cho biết có lúc ông Diệm theo lời khuyên của Đức giáo hoàng, dự tính bãi bỏ những biện pháp cứng rắn đối với Phật giáo. “Nhưng sau một phiên họp Hội đồng gia tộc thu hẹp không có bà Nhu, ông Cẩn, chỉ có ba người là ông Diệm, ông Nhu và Đức cha Thục, tổng Thống quyết định dùng biện pháp cứng rắn như đã ban hành ngày 21-8-1963.” (trích nguyên văn, L.M. Cao Văn Luận, sđd. tr. 271.)
9. Theo lời thượng tọa Thích Trí Quang, khi chùa Xá Lợi bị tấn công, ông bị bắt cùng với một số tăng ni và bị đưa về đồn Rạch Cát. (Trước 1975, Rạch Cát thuộc quận Bình Chánh, nay thuộc quận Bình Tân, TpHCM.) Khi các tu sĩ Nam tông được thả ra, Thích Trí Quang thay áo một tu sĩ Nam tông, đến chùa Pháp Quang (chùa Nam tông) và thừa cơ hội trốn vào tòa đại sứ Hoa Kỳ lúc đó còn ở trên đường Hàm Nghi. (Theo Thích Trí Quang, “Từ Rạch Cát tới tòa đại sứ”. . (Trích 1-2-2009.)
10. Trần Văn Đôn, Việt Nam nhân chứng, California: Nxb. Xuân Thu, 1989, tr. 173.(TVĐ, sđd. tr.)
11. Hoàng Ngọc Thành & Thân Thị Nhân Đức, sđd. tr. 532. Tác giả Hoàng Ngọc Thành trích dẫn Richard Reeves, President Kennedy, Profile of Power, New York: Simon & Schuster, 1993, tr. 651.
12. Nguyễn Trân, Công và tội, những sự thật lịch sử, California: Nxb. Xuân Thu, 1992, tr. 478.
13. Mark Moyar, Triumph Forsaken, the Vietnam War, 1954-1965, Cambridge: Cambridge University Press, 2006, tr. 128. (Viết tắt: Mark Moyar, sđd. tr.)
14. Theo lời kể của ông Cao Xuân Vỹ, hiện đang sinh sống tại California với ông Minh Võ. (Minh Võ, “Ba giờ nghe một nhân chứng”, Đàn Chim Việt, ngày 18-07-2007.) Lúc đó, ông Cao Xuân Vỹ là tổng giám đốc Thanh Niên, và là phó tổng thủ lãnh Thanh Niên Cộng Hòa. Ngô Đình Nhu là tổng thủ lãnh. Ngoài ra, theo Trần Văn Đôn, sđd. tt.183-184, đầu tháng 2-1963, trung tá Lê Văn Bường, tỉnh trưởng Bình Tuy dùng xe Dodge 4x4 chở Ngô Đình Nhu đến quận Tánh Linh, tỉnh Bình Tuy. Tới điểm hẹn, ông Nhu một mình gặp Phạm Hùng.
15. Minh Võ, “Hoa đào và máu đào”, điện báo Đàn Chim Việt, ngày 31-10-2007. Trong bài nầy, Minh Võ dẫn chứng tài liệu của Francis X. Winter, The Year of the Hare [Năm con thỏ], Athens: University Georgia Press, 1997, tr. 12.[ Năm Con Thỏ theo người Trung Hoa, tức Năm Con Mèo, ở đây là năm Quý Mão (1963).] Minh Võ còn cho biết thêm hai nhân chứng: 1) Ông Lê Châu Lộc, tùy viên của tổng thống Diệm, hiện sinh sống ở California, kể lại rằng tự tay ông Lộc đã nhận cành đào đó từ trụ sở Uỷ Hội Quốc tế Kiểm Soát Đình Chiến (ICC). 2) Ông Quách Tòng Đức, đổng lý văn phòng Phủ tổng thống đã xác nhận việc cành đào trong cuộc phỏng vấn của ông Lâm Lễ Trinh, đăng nhiều báo ở Mỹ.
16. Xin xem bản dịch điện văn phía dưới.
17. Adrien Launay, Histoire de la Mission de Cochinchine 1658-1823, Documents historiques, volume III, Paris: Librairie Orientale et Américaine, Maisonneuve Frères, Éditeurs, 1925, tr. 436.
18.
BẢN DỊCH ĐIỆN VĂN SỐ 243 NGÀY 24-8-1963

"Bộ Ngoại Giao gởi Tòa Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn để thi hành ngay lập tức.
Tối Mật. Không được phép phổ biến.
Chỉ đích thân Đại Sứ Lodge mới được phép đọc mà thôi. Đối với CINPAC/POLAD thì chỉ Đô Đốc Felt được phép đọc mà thôi.
Theo CAS Sài Gòn 0265 báo cáo về quan điểm của Tướng Đôn; Saigon 320, Saigon 316, Saigon 329. [Các con số là những ký hiệu mật mã.]
Bây giờ thì rõ là hoặc quân đội đề nghị lệnh thiết quân luật hoặc ông Nhu đã lừa họ. Ông Nhu đã lợi dụng tình trạng đó để tấn công chùa chiền bằng cảnh sát và Lực Lượng Đặc Biệt của Đại Tá Tung trung thành với ông ta, làm cho nhân dân Việt Nam và thế giới ngỡ lầm rằng quân đội làm. Hơn nữa, cũng thật quá rõ là ông Nhu đã âm mưu sắp đặt ông ta vào vị trí chỉ huy.

Chính phủ Hoa Kỳ không thể dung dưỡng tình trạng mà quyền hành lại nằm trong tay ông Nhu. Ông Diệm phải loại bỏ ông Nhu và các thuộc hạ của ông để thay vào đó bằng quân đội tinh nhuệ và các chính trị gia có tư cách.

Nếu ông [tức Đại Sứ Lodge] cố gắng hết sức, nhưng ông Diệm vẫn ngoan cố và từ chối thì chúng ta phải đối đầu với một điều có thể xảy ra, là ngay cả bản thân ông Diệm cũng không thể tồn tại được.

Ký tên: Hilsman, Forrestal, Ball, W.Everell Hariman ".
(Trích Internet: "Khui hồ sơ bí mật”, Ngô Kỷ tổng hợp và chuyển ngữ.)
Page 1 of 1
********************
Source
Calitoday